Thứ Sáu, 20 tháng 8, 2010


ĐỌC SÁCH TIN MỪNG

Ki-tô hữu đọc Sách Thánh

ĐỌC MÁT-THÊU

(Bài tóm)

ĐỌC SÁCH TIN MỪNG MÁT-THÊU

–––––––––––––––––––––––

A.GIỚI THIỆU VẮN TẮT

Mát-thêu có nhiêu chỉ dẫn về cách sống đạo thích hợp cho mọi thành phần Dân Chúa. Qua Mát-thêu, ta đến với các sách Tin Mừng kia.
 Chủ đích của Mát-thêu.

- Loan báo Đ.Giê-su Na-da-rét, Đấng rao giảng Tin Mừng về Nước Trời

. Là Con Thiên Chúa,

. đến để giải thoát dân Ít-ra-en và cứu độ muôn dân

 Chủ đề của Mát-thêu.

Đề tài chính của Mát-thêu là “Nước Trời”.

Có 5 bài giảng về Nước Trời (Mt 5–7; 10; 13; 18; 24–25),

với câu kết gần giống nhau: "Khi Đ.Giê-su đã … xong ... thì ..."

(Mt 7,28; 11,1; 13,53; 19,1; 26,1).

- Khi rao giảng, Đ.Giê-su cho thấy Tình Thương cứu độ của Thiên Chúa.

- Khi chữa bệnh và trừ ma quỷ, Đ.Giê-su cho thấy Uy Quyền của Thiên Chúa trên mọi người mọi vật

Đó là Nước Trời (hay Triều Đại Thiên Chúa) đã đến.

 Dàn bài tóm lược.

- Mát-thêu có 28 chương, ta chia làm 3 phần, theo 3 thời của Đ.Giê-su; thời giảng dạy chia làm 3 kỳ:

. Thời thơ bé (Mt 1–2).

. Thời giảng dạy (Mt 3–25):

. Thời khổ-nạn-phục-sinh (Mt 26–28).


 Sơ Đồ Mát-thêu.

- Về thời thơ bé, thời giảng dạy, thời khổ-nạn-phục-sinh (k-n-p-s).

Cảm nghiệm được Đ.Giê-su phục sinh và nhờ ơn Chúa Thánh Thần, các Tông Đồ nghiệm lại Sách Thánh, hiểu cuộc đời Đ.Giê-su cách sâu sắc, nhất là cuộc khổ-nạn-phục-sinh.

- Về thời giảng dạy (Mt 3–25),với 3 kỳ giảng:

B.DIỄN GIẢI GỢI Ý

Đã biết tổng quát về Mát-thêu, điều cần là đọc chính Mát-thêu. Xem phần Diễn Giải Gợi Ý sâu đây và đọc các đoạn Tin Mừng tương ứng để cảm nhận về Mát-thêu.

 Đ.Giê-su là Con Thiên Chúa (Mt 1,18-25).

Hai chương đầu của Mát-thêu nói về thời thơ bé của Đ.Giê-su và cho biết nguồn gốc của Ngài.

- Đoạn 1,28-25 cho biết Đ.Giê-su vừa là con người vừa là Con Thiên Chúa,

. sinh ra bởi quyền năng Chúa Thánh Thần,

. để cứu thoát Ít-ra-en Dân Chúa.

Ngài là “Em-ma-nu-en” là “Thiên Chúa-ở-cùng-chúng ta” để thực hiện Lời Hứa của Thiên Chúa, theo như lời Sách Thánh.

- Thánh Giu-se đón Đ.Ma-ri-a về, và đặt tên cho em bé là Giê-su có nghĩa là “Thiên Chúa cứu”. Quả thật Đ.Giê-su là Đấng Cứu Thế.

Thiên Chúa cũng cần một “Giu-se công chính” (1,19) để mẹ Đấng Cứu Thế được yên thân trong xã hội Do-thái và Con Thiên Chúa có “hộ thường trú” (!) giữa loài người, đồng thời được kể là thuộc dòng họ vua Đa-vít, theo lời hứa.

Thiên Chúa thực hiện chương trình của Người, nhưng qua những con người. Chúng ta, mỗi người mỗi cách, cũng được Thiên Chúa mời gọi góp tay vào công trình của Thiên Chúa vẫn còn đang tiếp diễn.

 Tám mối phúc (Mt 5,1-12).

"Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó ...

………………………….....

Phúc thay ai bị bách hại ..."

(Nghe sao có vẻ ngược đời quá! Nhưng đây không phải là những suy tính thường tình của kiếp người vắn vỏi và hạn hẹp).

Phúc là vì có tấm lòng đơn sơ chân thật và vì được tấm lòng Thiên Chúa đoái thương.

. Ba mối phúc mở đầu dành cho những tấm lòng đơn nghèo, hiền lành và khiêm nhượng, chỉ cậy dựa vào Thiên Chúa.

Họ được Thiên Chúa đặc biệt mời gọi đón nhận Tin Mừng về Nước Trời. Đ.Giê-su vốn là người nghèo “hiền lành và khiêm nhượng” như thế (Mt 11,29).

. Ai sống công chính và ước ao cho sự công chính được thực thi (tức là hướng về Thiên Chúa) thì sẽ được thoả lòng.

. Ai biết thương xót (tức là biết nghĩ đến người khác) thì sẽ được Thiên Chúa xót thương.

Câu chuyện về ngày phán xét chung là một minh họa, Mt 25,31-46.

. Ai có tấm lòng chân thật trong sáng sẽ được gặp Thiên Chúa và sự thân tình của Người.

. Ai xây dựng hoà bình thì chứng tỏ mình là con cái của Cha Trên Trời và là anh em của mọi người.

. Ai bị ngược đãi vì sống công chính, thì đã chia sẻ thân phận của Đ.Giê-su, Đấng Công Chính bị ngược đãi. Nước Trời chắc chắn là gia nghiệp của họ.

Tám Mối Phúc là những điều mà người môn đệ chân chính cảm nghiệm dần dần khi dấn bước theo Đ.Giê-su.

 Đức công chính trong Nước Trời (Mt 5,17-48).

Sống công chính theo tinh thần của Nước Trời là sống bác ái thật lòng. Mấy trường hợp làm ví dụ:

- Về tình người (Mt 5,21-26).

Con người là cao quý hơn mọi thứ ở trần gian. Hại đến mạng sống con người là một trọng tội. Giận ghét hoặc làm khổ làm nhục người khác là phạm bác ái rồi.

Tha thứ, hòa giải là cần thiết và cao trọng hơn lễ vật. Có thông hiệp với nhau mới có thể được hiệp thông với Chúa.

- Về tình yêu nam nữ (Mt 5,27-32).

Chớ ngoại tình.

Có ý định làm chuyện tà dâm là đã phạm tà dâm trong lòng.

Các quyến rũ, cũng như các ý nghĩ và cảm xúc về tình nam nữ vốn là chuyện tự nhiên, tuy có thể trở thành dịp cám dỗ, dịp tội Cần tỉnh táo và thành thực với mình, với người, để loại trừ mọi ý định xấu..

Tự móc mắt, chặt tay là những lối nói để người nghe phải chú ý và quyết tâm.

- Về tình nghĩa vợ chồng (5,31tt).

Tình nghĩa vợ chồng là chuyện trọn đời trọn kiếp.

Hãy nghĩ tới hạnh phúc (bây giờ và mai sau) của vợ chồng, của con cháu và cả xã hội loài người.

- Chớ thề thốt (5,33-37).

Có nói có, không nói không. Thế thôi.

- Chớ trả thù (5,38-42).

Luật Cựu Ước cho phép trả thù theo mức độ mình bị hại: mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Đ.Giê-su thì nói: bị vả má phải thì đưa luôn má trái.

Đây là lối nói với hình ảnh rất mạnh để người nghe phải chú ý.

Điều chính là cần vượt qua lòng thù oán.

- Yêu kẻ thù (Mt 5,43-48).

“yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi mình”.

Như thế mới trở nên con cái của Cha Trên Trời là Đấng hoàn toàn thánh thiện, đoái thương người lành cũng như kẻ dữ.

 Cầu nguyện như Chúa dạy: Kinh Lạy Cha (Mt 6,9-13).

“Lạy Cha”, “Abba” trong ngôn ngữ A-ram là tiếng trẻ con nói với bố. Đ.Giê-su dạy chúng ta hãy đơn sơ thân mật với Thiên Chúa, vì Ngài là cội nguồn vừa là Đấng yêu thương gần gũi chúng ta.

“Lạy Cha chúng con”: khi nhận biết Thiên Chúa là Cha, chúng ta cũng nhận biết mọi người là anh chị em của mình.

“Cha Trên Trời”: không có nghĩa là ở một nơi nào, mà là Cha vô cùng cao cả thánh thiện, vượt trên mọi người cha ở trần gian.

Kinh Lạy Cha gồm có hai phần:

 Phần đầu có 3 nguyện ước: Cho Danh Cha, Nước Cha, Ý Cha.

- “Danh Cha cả sáng” (hoặc “hiển thánh”): Nguyện xin cho loài người tin nhận Ngài là Thiên Chúa duy nhất, chân thật và vô cùng thánh thiện.

- “Nước Cha trị đến”: Nguyện xin cho mọi người nhận biết uy quyền của Chúa trên muôn loài muôn vật và tình thương cứu độ của Người.

- “Ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”: Nguyện ước mọi người biết thực thi ý Chúa như lòng Ngài mong mỏi.

 Phần sau là 4 lời cầu xin về những điều chúng ta cần hằng ngày, để sống xứng đáng là con cái Chúa.

- Xin lương thực phần xác phần hồn.

- Xin Chúa tha thứ và cho mình biết thứ tha.

- Xin ơn vượt thắng các chước cám dỗ.

- Xin ơn cứu thoát khỏi sự dữ kẻo bị lạc mất Chúa.

“A-men” gốc là tiếng Do-thái, có nghĩa là: xin cho được như vậy.

Tóm lại, Đ.Giê-su dạy chúng ta:

. Trước hết hãy nghĩ đến Chúa và ơn cứu độ cho muôn người.

. Sau là những điều cần thiết thường ngày của chúng ta.

Kinh Lạy Cha là mẫu mực của mọi lời cầu nguyện.

 Tin Mừng cho những người đơn sơ bé mọn (Mt 11,25-30).

- Đ.Giê-su vui mừng mà ngợi khen Chúa Cha, vì các kẻ đơn sơ bé mọn được yêu thương chăm sóc. Họ được hiểu biết về Nước Trời chứ chẳng cần phải là thông thái tài giỏi.

- Vì lợi ích chung, cần có luật lệ. Nhưng nhiều luật và lệ của đạo Do-thái thời ấy đã trở thành cái ách, cái gánh quá nặng cho những người đơn sơ bé mọn. Đ.Giê-su cảm thương họ.

- Ách và gánh của Đ.Giê-su là đạo lý Tin Mừng, đặt nền tảng trên tình yêu. Nơi Đ.Giê-su, người hiền lành khiêm nhượng sẽ được bình an và hạnh phúc.

“Hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.

Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.

Vì ách tôi êm ái, và gánh tôi nhẹ nhàng" (Mt 11,29tt).



 Dụ ngôn về người gieo hạt giống Lời Chúa (Mt 13,1-23).

- Công cuộc rao giảng Tin Mừng Nước trời cũng tựa như việc đi gieo giống. Có hạt hư đi, có hạt mang kết quả, có nơi được 30, có nơi 60 hoặc 100. Dụ ngôn lại nhắc nhở ta về cách đón nhận và thực hành Lời Chúa. Lời Chúa như hạt giống tốt. Lòng dạ con người là đất để đón nhận Lời Chúa.

Hãy cẩn thận về cách nghe, cách đón nhận và thực thi Lời Chúa, vì tùy đó mà ta được (hay bị) xếp hạng.

 Bước theo Đ.Ki-tô trong lòng Hội Thánh (16,13-28).

- Đ.Giê-su dẫn các môn đệ đi riêng, xa đám đông, khi đến gần thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, Ngài dò hỏi ý dân chúng hiểu về Ngài, rồi hỏi các ông: “còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”

Câu hỏi này vẫn tiếp tục vang vọng trong lòng lịch sử nhân loại và trong lòng những ai bước theo Ngài.

- Ông Phê-rô tuyên xưng:

“Thầy là Đấng Ki-tô Con Thiên Chúa hằng sống”.

Đ.Giê-su nói với ông:

“Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này,

Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy,

và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi.

Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời:

dưới đất anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc,

dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi”.

(Mt 16,18tt; xem thêm 18,18tt).

- Chỗ này được xem là khúc rẽ quan trọng, vì từ đây Đ.Giê-su

bắt đầu nói về con đường khổ-nạn-phục-sinh.

. Con Người sẽ lên Giê-ru-sa-lem, chịu nhiều đau khổ,

bị giết chết và ngày thứ ba sẽ sống lại.

. Ai muốn theo Thầy, phải quên mình,

vác thập giá mình mà bước theo.

Con đường khổ-nạn-phục-sinh Đ.Giê-su đã đi qua,

Con đường các môn đệ ngày xưa nối gót,

Cũng là con đường của Hội Thánh hôm nay,

Và của chúng ta ngày lại ngày.

 Giáp mặt Chúa (Mt 25,31-46).

- Đ.Giê-su dùng một câu chuyện để nói về việc phán xét muôn dân.

- Điều bất ngờ là ở đây vị xét xử chỉ chú trọng đến cách mỗi người đối xử với người khác, nhất là đối với kẻ nghèo khổ, ốm đau, hoạn nạn, v.v…

Điều bất ngờ thứ hai là người lành cũng như kẻ dữ đều bỡ ngỡ mà thưa lại rằng: “Có bao giờ chúng con gặp thấy Chúa đói khát, hay là khách lạ, hoặc trần truồng, đau yếu hay ngồi tù …”

- Và Chúa cho biết: khi đối xử như thế đó đối với những người gặp khổ đau hoạn nạn, là đã làm cho chính Ngài rồi vậy!

Phải chăng mỗi khi đứng trước một người đang cần sự yêu thương giúp đỡ là ta như đứng trước lời mời gọi của Thiên Chúa, dù có tin hay không tin Thiên Chúa.

Lý do là bởi “Yêu Chúa và Yêu người” là hai mà một.

Tất cả đạo Chúa gồm tóm chỉ có thế! Mà đó là tất cả!

 Ga-li-lê đất hẹn hò (Mt 28,1-8.16-20).

Nói về Đ.Giê-su sống lại, Mát-thêu dùng một lối văn riêng của Cựu Ước và mấy hình ảnh của văn khải huyền như “Thiên thần Chúa mặt sáng như chớp”, “đất rung chuyển” v.v...

Điều quan trọng nằm trong lời thiên thần nói với các bà:

“[…] Đấng bị đóng đinh không có ở đây, […]

hãy về nói với các môn đệ là Ngài đã sống lại

và đi Ga-li-lê trước, ở đó các ông sẽ gặp Ngài” (Mt 28,57).

Đất Ga-li-lê không được xem trọng, còn bị gọi là đất dân ngoại, đất của dân tứ xứ, vì nhiều phen đã bị nước ngoài xâm chiếm, lại cũng thường có dân ngoại lui tới buôn bán làm ăn.

Hẹn ở Ga-li-lê phải chăng là ở tứ phương, trên đường đời vạn nẻo.

Các môn đệ đến Ga-li-lê, lên núi để gặp lại Đ.Giê-su.

Đ.Giê-su phục sinh long trọng ngỏ lời với các môn đệ:

“[…] Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.

19Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, […] 20dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”

(Mt 28,18-20).

Mt 28,16-20 là đoạn văn then chốt, vừa tóm kết sách Mát-thêu vừa tuyên xưng Đ.Giê-su là Đấng Cứu Thế nắm giữ mọi quyền trên trời dưới đất.

Ngài ban lệnh rao giảng Tin Mừng về Nước Trời cho muôn dân và hứa sẽ luôn luôn có mặt cùng Hội-Thánh-Dân-Chúa.

Câu 20 gợi lại Mt 1,23: “Đ.Giê-su Phục sinh” là “Em-ma-nu-En” (Thiên Chúa ở cùng chúng ta).

* * *


- Mát-thêu có nhiều lời chỉ bảo về cách sống đạo, thích hợp cho mọi thành phần Dân Chúa. Qua Mát-thêu ta dễ đến với các sách Tin Mừng kia.

 Chủ đích: - Loan báo Đ.Giê-su Na-da-rét,

Đấng rao giảng Tin Mừng về Nước Trời,

. là Con Thiên Chúa,

. đến giải thoát Ít-ra-en và cứu độ muôn dân.

 Dàn Bài Tóm Lược:

Mát-thêu có 28 chương, ta chia làm 3 phần theo 3 thời của Đ.Giê-su Ki-tô; thời giảng dạy chia làm 3 kỳ:

. Thời thơ bé (1–2)

. Thời giáng dạy (3–25):

. Thời khổ-nạn-phục-sinh (26–28)



 Mấy đoạn để nghiền ngẫm cách riêng:

. Mt 5,1–7,29 : Bài giảng trên núi: Sống công chính theo tinh thần của Nước Trời.

. Mt 6,5-15 : Kinh Lạy Cha: (Cầu nguyện như Đ.Ki-tô dạy).

. Mt 13,1-52 : Hạt giống Lời Chúa cho mọi người.

. Mt 16,13-28 : Bước theo Đ.Ki-tô trong lòng Hội thánh.

. Mt 28,16-20 : Ga-li-lê đất hẹn hò!



Câu nằm lòng:

“Hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân […]

dạy họ vâng giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.

và đây Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”

(Mt 28,19-20).



Thứ Tư, 18 tháng 8, 2010

TÓM TẮT THÁNH KINH


TÓM TẮT THÁNH KINH
I. CỰU ƯỚC: 46 cuốn

a. Sách lịch sử: 21 cuốn, 5 cuốn đầu gọi là Ngũ kinh

Sáng thế (50), Xuất hành (40), Lê-vi (27), Dân số (36), Đệ nhị luật (34), Giô-suê (24), Thủ lãnh (21), Rút (4), 1 Sa-mu-en (31), 2 Sa-mu-en (24), 1 Vua (22), 2 Vua (25), 1 Sử biên niên (29), 2 Sử biên niên (36), Ét-ra (10), Nơ-khe-mi-a (13), Tô-bi-a (14), Giu-đi-tha (16), Ét-te (10), 1 Ma-ca-bê (16), 2 Ma-ca-bê (15).

b. Sách giáo huấn: 7 cuốn

Gióp (42), Thánh vịnh (150), Châm ngôn (31), Giảng viên (12), Diễm ca (8), Khôn ngoan (19), Huấn ca (51).

c. Sách tiên tri: 18 cuốn: 6 cuốn đầu ngôn sứ lớn và 12 cuốn sau ngôn sứ nhỏ

I-sai-a (66), Giê-rê-mi-a (52), Ai ca (5), Ba-rúc (6), Ê-dê-ki-en (48), Đa-ni-en (14), Hô-sê (14), Giô-en (4), A-mốt (9), Ô-va-đi-a (14 câu), Giô-na (4), Mi-kha (7), Na-khum (3), Kha-ba-cúc (3), Xô-phô-ni-a (3), Khác-gai (2), Da-ca-ri-a (14), Ma-la-khi (3).

II. TÂN ƯỚC: 27 cuốn, chia làm 3 loại

a. Lịch sử: 5 cuốn: 4 Tin mừng và sách Cộng vụ tông đồ

Mát-thêu (28), Má-cô (16), Lu-ca (24), Gio-an (21) và Công vụ tông đồ (28).

b. Sách Giáo huấn: 21 cuốn: 14 thư đầu của Thánh Phaolô và 7 Thư chung

Rô-ma (16), 1 Cô-rin-tô (16), 2 Cô-rin-tô ( 13), Ga-lát (6), Ê-phê-sô (6), Phi-líp-phê (4), Cô-lô-xê (4), 1 Thê-xa-lô-ni-ca (5), 2 Thê-xa-lô-ni-ca (3), 1 Ti-mô-thê (6), 2 Ti-mô-thê (4), Ti-tô (3), Phi-lê-môn (25 câu), Do-thái (13), Gia-cô-bê (5), 1 Phêrô (5), 2 Phêrô (3), 1 Gio-an (5), 2 Gio-an (13 câu), 3 Gio-an (15 câu), Giu-đa (25 câu)

c. Sách tiên tri: 1 cuốn

Khải huyền của Thánh Gioan(22).

III. NỘI DUNG CÁC SÁCH

1. Sách Sáng thế (St): Trình bày lịch sử sơ khai của vũ trụ và nguồn gốc loài người. làm khởi điểm cho hành trình lịch sử cứu độ, mà Thiên Chúa đã từng bước thực hiện nơi dân tộc Do Thái là dân riêng của Người.

2. Sách Xuất hành (Xh): Sách xuất hành kể lại việc Thiên Chúa giải phóng dân Israel thoát khỏi cảnh nô lệ Ai Cập; cuộc hành trình trong sa mạc và việc Thiên Chúa kết giao ước với dân riêng của Người trên núi Sinai.

3. Sách Lêvi (Lv): Trình thuật những nghi thức tế tự, và phong chức các tư tế; những luật lệ liên quan đến việc thanh sạch và uế tạp; nghi thức về ngày đại xá tội và lời chúc lành, chúc dữ; định rõ những điều kiện để chuộc người, vật và các thứ khác hiến dâng cho Thiên Chúa.

4. Sách Dân số (Ds): Ghi lại những biến cố của cuộc hành trình trong sa mạc, cuộc khởi hành trên núi Sinai được sửa soạn bởi việc kiểm tra dân số; việc đánh chiếm các dân trên đường tiến về đất hứa và việc định cư tại đất Canaan.

5. Sách Đệ Nhị Luật (Đnl): Đây là bản dân luật và luật tôn giáo do Môsê soạn tác. Trong sách này ghi lại một phần các lề luật được ban trên núi Sinai; đồng thời nhắc lại những biến cố chính trong sa mạc và mặc cho nó một ý nghĩa tôn giáo, hầu thôi thúc dân trung tín với Thiên Chúa.

6. Sách Giô-suê (Gs): Kể lại cuộc đời của một vị tướng tên là Giô-suê, từ lúc lãnh đạo dân đánh chiếm Đất hứa và phân chia đất đai; cho đến những diễn từ cuối đời của Giô-suê, nhất là đại hội tại Sikhem.

7. Sách Thủ lãnh (Tl): Sách kể lại việc các chi tộc Israel lập cư ở Canaan, nhất là giới thiệu về hoạt động của những thẩm phán đã được Thiên Chúa chọn cách đặc biệt để hướng dẫn và giải thoát dân riêng của Người.

8. Sách Rút (R): Kể về câu chuyện một thiếu phụ người Mô-áp tên là Rút, chồng ba quê ở Belem sang lập cư ở Mô-áp. Sau khi chồng chết bà đã trở về Giuđa với mẹ chồng là bà No-ê-mi và đã cưới Bo-as một người bà con của chồng. Câu chuyện trên đây xây dựng với một mục đích ca ngợi lòng tin tưởng vào Thiên Chúa là Đấng xót thương cả người ngoại bang. Sự kiện Rút được nhìn nhận là tổ mẫu của Đavít đã đem lại cho quyển sách một giá trị đặc biệt, và thánh Má-thêu đã ghi tên bà Rút vào gia phả của Chúa Giêsu.

9. Sách I Sa-mu-en (Sm): Nói về sự ra đời của vị thẩm phán cuối cùng trong dân tộc Israel có tên gọi là Samuel, mở màng cho chế độ vương quyền; đồng thời tường thuật về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thoát khỏi sự đe doạ của dân Philitinh và dân A-ma-lếch.

10. Sách II Sa-mu-en (Sm): Ghi lại những kết quả chính trị của triều đại Đavít: quân Philitinh bị đẩy lui vĩnh viễn, việc thống nhất đất nước được hoàn toàn, Giêrusalem trở thành kinh đô chính trị và tôn giáo của vương quốc.

11. Sách I Vua (1 V): Sách các vua ghi lại lịch sử của một dân tộc được Thiên Chúa cứu thoát; đồng thời cũng cho thấy thái độ vô ơn của dân được tuyển chọn. Sự sụp đổ của dân tộc xem ra đã làm hỏng kế hoạch của Thiên Chúa; nhưng người ta thấy luôn luôn có một nhóm trung tín không chịu quỳ gối trước Ba-an, một số sót của Si-on trung tín với giao ước của Giavê.

12. Sách II Vua (2 V): Ghi lại những nét thăng trầm của lịch sử Israel, sự xuất hiện can thiệp của các tiên tri đối với các vua, giúp cho dân chúng thức tỉnh tinh thần quốc gia và cuộc cải cách tôn giáo. Sự sụp đổ Giêrusalem và đợt đi đầy thứ hai.

13. Sách I và II Sử biên niên (Sb): Là cuốn sách ghi lại những sự việc của Do Thái giáo vào thời kỳ sau lưu đầy trước năm 300. Tác giả là một người Lêvi nhắc lại cho những người dân cùng thời rằng: đời sống của dân tộc tuỳ thuộc vào sự trung thành với Thiên Chúa. Việc trung thành này hệ tại ở việc tuân giữ lề luật của Chúa và bằng việc phụng thờ Thiên Chúa với lòng đạo đức chân thật.

14. Sách Ét-ra (Er) và Nơ-khe-mi-a (Nkm): Là sách miêu tả sự trở về Giêrusalem giữa những đổ nát sau cuộc lưu đày, việc xây dựng lại thành thánh và cộng đoàn. Hơn thế nữa, tác giả xác tín rằng đền thờ là dấu chỉ hiện hữu của Thiên Chúa. Cho nên, con người phải biết lo chu toàn việc phụng thờ Thiên Chúa. Ét-ra và Nơ-khe-mi-a là hai vị lãnh đạo đã khôi phục lại Giêrusalem, đền thờ, luật Môsê, việc phụng tự và sự trung thành với nòi giống.

15. Sách Tô-bi-a (Tb): Là một câu chuyện gia đình Ninivê được Thiên Chúa quan phòng yêu thương. Qua đó tác giả muốn khai triển một ý niệm rất cao trong tinh thần Kitô giáo về hôn nhân: nếu tin tưởng và sống theo đường lối của Thiên Chúa thì sẽ được Ngài che chở và yêu thương.

16. Sách Giu-đi-tha (Gđt): Sách Giu-đi-tha là câu chuyện về một cuộc toàn thắng của dân Israel trên quân thù là đế quốc Assur, qua sự can thiệp của một người đàn bà tên là Giu-đi-tha. Sự toàn thắng của Giu-đi-tha là phần thưởng cho lời cầu xin và việc tuân giữ luật thanh sạch. Sàch đã được viết tại Phalêtin vào giữa thế kỷ thứ II trước công nguyên.

17. Sách Ét-te (Et): Kể chuyện một cuộc giải thoát nhờ một người đàn bà tên là Ét-te. Dân Do thái tại đế quốc Batư bi đe doạ tiêu diệt do sự ghen ghét của quan Đại Thần tên là Aman, nhưng đã được cứu thoát nhờ sự can thiệp của Ét-te; một người đồng hương đã trở thành Hoàng Hậu được người cậu là Marđôkê hướng dẫn. Một sự đảo lộn tình thế diễn ra: Aman bị treo cổ, Marđôkê thay chỗ, người Do thái tàn sát kẻ thù.

18. Sách I Ma-ca-bê (I Mcb): Tác giả Macabê là một người Do thái nhiệt thành với lòng tin vào Thiên Chúa, đã xem những khốn cùng và thất bại của Israel như một trừng phạt tội lỗi mà lòng xót thương của Thiên Chúa muốn dùng sửa trị dân; đồng thời tác giả coi những thành công của các nhân vật là do sự trợ giúp của Thiên Chúa.

19. Sách II Ma-ca-bê (II Mcb): Không phải là một tác phẩm tiếp theo của Ma-ca-bê I. Sách kể lại cuộc chiến tranh giải phóng do Giu-đa Ma-ca-bê lãnh đạo, được ơn thiêng liêng nâng đỡ và toàn thắng nhờ sự can thiệp của Thiên Chúa. Sách Ma-ca-bê II quả quyết về vấn đề người chết sống lại, những hình phạt đời sau, lời cầu nguyện cho kể chết và công trạng của những người tử vì đạo.

20. Sách Gióp (G): Sách kể về cuộc đời của một con người có tên là Gióp, đã bị thử thách trăm triều: trước sự tấn công của Satan, của gia đình, của bạn bè. Nhưng ông đã vượt thắng được tất cả nhờ có lòng tin tưởng tuyệt đối vào sự quan phòng của Thiên Chúa tình yêu.

21. Thánh vịnh (Tv): Thánh vịnh là những lời cầu nguyện của Cựu ước. Chính Thiên Chúa đã gợi lên những tâm tình con cái Người phải có đối với người, và cũng là những lời con người phải dùng để ngõ cùng Thiên Chúa.

22. Sách Châm ngôn (Cn): Nói về việc Thiên Chúa ân thưởng sự chân thật, bác ái, sự trong sạch của lòng trí, và đức khiêm nhường; đồng thời Chúa cũng xử phạt những ai sống giả dối, ích kỷ, kêu ngạo và lòng trí xấu xa. Nguồn gốc và tóm lược của tất cả các nhân đức là sự khôn ngoan.

23. Sách Giảng viên (Gv): Ghi lại những lời của Cohelet con của Đavít vua Gierusalem. Trước những hiểu biết, của cải, tình yêu và sự sống; tất cả điều làm cho con người thất vọng khi đứng trước sự chết. Nhưng Cohelet không ngỡ ngàng trước thế thái nhân tình đó, vì mọi sự đều do Thiên Chúa qui định và con người phải đón nhận từ bàn tay Ngài những thử thách cũng như những vui mừng; con người phải tuân giữ các lệnh truyền và kính sợ Thiên Chúa.

24. Sách Diễm ca (Dc): Được xếp vào loại sách khôn ngoan, vì đã đề cập tới như những sách khôn ngoan khác, thân phận của con người. Đến một trong những khía cạnh cốt thiết của con người. Theo cách diễn tả của mình. Diễm ca giáo dục người đọc về sự tốt lành và phẩm giá của tình yêu giữa người nam và người nữ.

25. Sách Khôn ngoan (Kn): Salômôn được kể là tác giả của sách. Ong đã nêu lên vai trò của khôn ngoan trong vận mệnh con người và so sánh số phận của người công chính với kẻ gian ác, trong cuộc sống sau khi chết. Ong cũng trình bày về nguồn, bản chất của khôn ngoan và những cách thức thu thập khôn ngoan. Cuối cùng ông đã ca ngợi hành động khôn ngoan của Thiên Chúa trong lịch sử dân Israel.

26. Sách Huấn ca (Hc): Là quyển sách nói về sự khôn ngoan của Thiên Chúa do Ben Sira rao giảng. Khởi đầu của khôn ngoan là kính sợ Thiên Chúa, khôn ngoan đem lại tươi trẻ và hạnh phúc. Ben Sira tin ở sự thưởng phạt, cảm thấy tầm quan trọng bi đát của giờ chết; nhưng ông chưa biết Thiên Chúa sẽ trả lại cho mọi người theo hành động của họ thế nào? Tác giả đã đồng nhất khôn ngoan với lề luật được Môsê loan báo.

27. Sách Ngôn sứ Isaia (Is): Tiên tri Isaia luôn ý thức về sứ vụ ngôn sứ của Chúa trao cho ông trong đền thờ. Ong sống niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa là Đấng Thánh, Đấng Quyền Năng, là Vua. Ong luôn hy vọng vào “số sót” trong dòng tộc Đavít sẽ được Thiên Chúa yêu thương cứu chuộc.

28. Sách Ngôn sứ Giê-rê-mi-a (Gr): Đây là một bộ tự thuật của tiên tri Giêrêmia đã mạnh mẽ giống tiếng cảnh tỉnh dân tộc của mình phải trung thành với Thiên Chúa không được chạy theo các thần ngoại lai; đồng thời ông cũng can đảm vạch rõ những lỗi lầm bất tài của vua Israel. Mặc dù sứ vụ Giêrêmia đã thất bại lúc sinh tiền, nhưng dung mạo của ông vẫn không ngừng lớn lên sau khi ông chết.

29. Sách Ai-ca (Ac): Sách Ai-ca dành cho ngày kỷ niệm đền thở bị phá huỷ; gồm các bài “điếu tang”, than khóc cánh. Đây là những lời than khóc cảnh hoang tàn và bi đát của thành Giêrusalem. Chính lòng trông cậy kiên vững vào Thiên Chúa trong nỗi đau đớn tuyệt vọng của con người làm nên giá trị bất hữu của những bản ai ca này.

30. Sách Ê-dê-ki-en (Ed): Đây là bộ sách ghi lại cuộc đời và sự nghiệp của một vị tiên tri sống trong thời kỳ lưu đầy. Qua những thử thách kinh nghiệm riêng tư mà Thiên Chúa đã gởi đến cho ông, cũng là những dấu chỉ cho dân Israel. Ong loan báo Đấng Mêssia sẽ đến thưởng phạt xét xử tuỳ theo việc làm của mỗi người.

31. Sách Đa-ni-en (Đn): Sách có mục đích nâng đỡ lòng tin và niềm cậy trông của các người Do Thái bị Antiôkhô Ephiphanê bách hại. Đanien và các bạn của ông đã trải qua những thử thách như họ; nhưng các ông đã vượt thắng và những kẻ ra tay bách hại đã phải nhìn nhận quyền năng Thiên Chúa đích thực.

32. Sách Ba-rúc (Br): Cho chúng ta biết về đời sống tôn giáo của người Do thái ở các cộng đoàn hải ngoại và ảnh hưởng mạnh mẽ của ngôn sứ Giê-rê-mi-a đối với dân Do thái sau biến cố thảm khốc mất thành thánh.

33. Sách A-mốt (Am): A-mốt là một mục tử tại Tơqoa được Thiên Chúa sai đi nói tiên tri dưới thời Giêrôbôam II (783-743). Nhân danh Thiên Chúa, Amốt đã lên án cuộc sống của những người dân thành thị, những bất công xã hội, những nghi lễ không hồn. Thiên Chúa sẽ sửa phạt và Ngài sẽ cứu thoát nhà Giacóp.

34. Sách Hô-se (Hs): Hô-sê quê ở phía bắc sinh sống cùng thời với Amốt. Hô-sê là người đầu tiên đã diễn tả những liên lạc giữa Giavê và Israel trong ngôn ngữ của một cuộc hôn nhân. Ong nhấn mạnh về tình thương Thiên Chúa không được dân Người đón nhận hay đã được đáp lại bằng những bội phản.

35. Sách Mi-kha (Mk): Là người Giuđa quê ở Môrêshêr ông thi hành sứ vụ tiên tri trong những năm 712-701. Mikha có một ý thức rõ rệt về ơn gọi tiên tri của mình, ông loan báo những tai ương xảy tới do tội tôn giáo và tội luân lý. Nhưng Mikha vẫn hé mở hy vọng về sự cứu thoát của Giavê.

36. Sách Xô-phô-ni-a (Xp): đã rao giảng dưới triều đại Yôsya 640-609. Ong loan báo về hình phạt Giavê sẽ giáng xuống trên dân Israel về lỗi lầm tôn giáo và luân lý do lòng kiêu ngạo và bất phục tùng; nhằm đưa dân về lại con đường vâng phục và khiêm tốn. Sự cứu rỗi chỉ được hứa ban cho một “số sót” khiêm tốn.

37. Sách Na-khum (Nk): Thi hành sứ vụ tiên tri trong khi dân Israel đánh chiếm Ninivê 612. Sự sụp đổ của Ninivê là một án Thiên Chúa phạt kẻ phá hoại kế đồ của Người. Lời tiên tri nói thay lòng căm tức của Israel đối với kẻ thù truyền kiếp là Assur; đồng thời nói về sự công chính và lòng tin của dân đối với Thiên Chúa.

38. Sách Kha-ba-cúc (Kb): Thi hành sứ vụ tiên tri đồng thời với Nakhum và Giêrêmia, Habacúc đã đem lại một nét mới mẻ trong cách giáo lý của các tiên tri; Thiên Chúa toàn năng chuẩn bị cho sự toàn thắng cuối cùng của kẻ chính trực công chính sẽ được sống bằng sự trung tín của mình.

39. Sách Khác-gai (Kg): Nói những lời khích lệ với dân Israel trong việc khôi phục lại đất nước sau thời lưu đầy vào khoảng tháng 8 tới tháng 12 năm 520. Việc xây dựng đền thờ sẽ đem lại kỷ nguyên của thịnh vượng và là điều kiện để Giavê ngự đến ở với dân Người. Như thế thời cứu chuộc cánh chung đã hé mở.

40. Sách Da-ca-ri-a (Dcr): Viết sách vào khoảng từ tháng 10 năm 520 đến tháng 2 năm 519. Ong chú trọng đến việc tái thiết đền thờ; nhưng ông cũng nhấn mạnh đến việc tái thiết quốc gia bằng sự tinh sạch và luân lý. Dacaria cũng loan báo cách bí nhiệm về sự phục hưng của nhà Đavít và về Đấng bị đâm thâu.

41. Sách Ma-la-khi (Ml): Thi hành sứ vụ tiên tri vào những năm 514-445. Malakhi nói đến hững lỗi lầm về tế tự và tín hữu; nạn hôn nhân dị biệt và ly dị đồng thời ông cũng loan báo về ngày Giavê sẽ thanh luyện những kẻ gian ác và ban phần thưởng cho những người công chính.

42. Sách Ô-va-đi-a (Ôv): Là sách ngắn nhất trong các sách tiên tri chỉ có 21 câu. Ong loan báo về hình phạt E-đom và lời hứa Thiên Chúa sẽ cứu độ trong ngày chung thẩm.

43. Sách Giô-en (Ge): Xuất hiện sau thời lưu đầy, ông loan báo nạn cào cào châu chấu sẽ tàn phá Giuđa đưa đến một nghi lễ phụng vụ tang chay và khẩn nài; ông cũng nói về cuộc phán xét các dân tộc và sự toàn thắng của dân Israel.

44. Sách Gio-na (Gn): Sách ghi lại câu chuyện của một tiên tri bất tuân muốn tránh sứ vụ tiên tri của mình. Sách có mục đích giáo huấn cho những đe doạ là những biểu hiện của lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng chỉ chờ một dấu hối cải để ban ơn tha thứ.

45. Tin Mừng Mathêu (Mt): Nói về gốc tích và những năm tháng đầu đời của Chúa Giêsu và Ngài đi rao giảng Tin mừng Nước Trời, các mầu nhiệm Nước Trời cũng như Nước đã gần đến. Cuối cùng là nói đến cuộc thương khó và phục sinh của Ngài.

46. Tin Mừng Macô (Mc): Tường thuật lại sự kiện Giáng sinh và thời thơ ấu của Chúa Giêsu; nhắc đến sứ mạng dọn đường của Gioan Tẩy Giả và việc Chúa Giêsu chịu phép rửa và chịu cám dỗ. Ngoài ra, Thánh sử Mácô nhấn mạnh đến sự tương quan của Chúa Giêsu với mọi người và hé mở mầu nhiệm Con Người Đức Kitô, đến trần gian diễn tả tình yêu qua biến cố tử nạn và phục sinh.

47. Tin Mừng Luca (Lc): Tin Mừng Thánh Luca đặc biệt nhấn mạnh đến lòng thương xót, bao dung, tha thứ của Đức Kitô. Đặc biệt là các giáo huấn của Chúa Giêsu về việc ăn năn sám hối, cầu nguyện và sống bác ái yêu thương; đồng thời Luca cũng gieo rắc niềm vui trước lời loan báo ơn cứu độ, trước các phép lạ, những lần Chúa Giêsu hiện ra; Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội. Đặc biệt nơi Luca chan chứa hoan lạc vì ơn cứu độ đã có được ngày hôm nay.

48. Tin Mừng Gioan (Ga): Khác với Tin Mừng nhất lãm, Gioan muốn chứng minh Đức Giêsu là Ngôi Lời của Thiên Chúa đã hiện hữu ngay từ lúc khởi đầu, là nguồn mạch sự sống của nhân loại, là ánh sáng thật đến giữa thế gian, là Đấng mạc khải cho nhân loại biết khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa Cha. Thêm vào đó, Chúa Giêsu sử dụng ngôn ngữ của con người trong quyền năng của một Thiên Chúa, để mở cho nhân loại thấy tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa, cũng như sự sống đời đời được khai mở nơi chính Ngài.

49. Sách Công vụ tông đồ (Cv): Tường thuật những hoạt động truyền giáo của hai vị thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô. Vì vậy, có thể so sánh Công vụ tông đồ là sách lịch sử về Hội thánh sơ khai; đồng thời tác giải yêu cầu đế quốc Rôma nhìn nhận Kitô giáo được tự do về mặt tôn giáo và có quyền bình đẳng với các tôn giáo khác trong đế quốc.

50. Thư gởi tín hữu Rôma (Rm): Đang khi rao giảng ở Côrintô thánh Phaolô được ông Aquila và bà Picilia cho biết về tình trạng của giáo đoàn Rôma. Thánh nhân đã viết thư gởi cho tín hữu với nội dung: Tin mừng là sức mạnh Thiên Chúa dùng để cứu độ mọi người, trước là người Do thái sau là người Hy lạp và ngài nêu lên một số điểm thực hành cho các tín hữu.

51. Thư I & II gởi tín hữu Cô-rin-tô (Cr) Thánh Phaolô thành lập giáo đoàn Côrintô trong chuyến chuyền giáo thứ hai khoảng năm 50-52. Vì đức tin kitô hữu còn non trẻ cần tìm một mảnh đất mầu mở Kitô giáo để có thể lớn lên. Thánh Phaolô đã hướng dẫn các tín hữu ý thức hội nhập đức tin kitô giáo vào nền văn hoá ngoại giáo.

52. Thư gởi tín hữu Ga-lát (Gl): Sau khi thánh Phaolô rời Galát, các tín hữu gốc Do thái từ Giêrusalem đến làm lung lạc đức tin của anh em tín hữu gốc lương dân. Họ đòi buộc các tín hữu phải giữ luật Môsê, nhất là luật cắt bì. Cho nên, thánh Phaolô viết thư biện minh về sứ vụ tông đồ của mình và tuyên bố ơn công chính không do làm việc luật dạy, nhưng là bởi lòng tin vào Chúa Giêsu Kitô, đồng thời ngài khuyên các tín hữu bám chặt vào Chúa Giêsu sống theo ơn Chúa Thánh Thần, nhất là sống bác ái.

53. Thư gởi tín hữu Ê-phê-sô (Ep): Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa thực hiện chương trình cứu độ, mà Người đã sắp đặt từ bao đời trước. Mầu nhiệm quy tụ muôn loài dưới quyền Thủ Lãnh là Đức Kitô. Kêu gọi chiêm ngưỡng công trình Thiên Chúa thực hiện qua Đức Kitô và khuyên đọc giả sống kết hiệp với Đức Kitô.

54. Thư gởi tín hữu Phi-li-phê (Pl): Đây là một trong những bức thư chan chứa tình cảm. Thánh Phaolô viết trong lúc Ngài bị cầm tù, ngài vui mừng và hoan lạc trong cảnh tù đầy của mình; đồng thời Thánh nhân khuyên giáo đoàn Philiphê sống đức tin vững vàng, hiệp nhất với nhau và đề phòng những người không trung tín với Tin mừng.

55. Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê (Cl): Trong khi thánh Phaolô đang bị cầm tù ở Rôma, nhận được tin giáo đoàn Côlôxê đang bị đe doạ đời sống đức tin. Thánh nhân viết thư đề cao quyền tối thượng của Chúa Kitô và khuyên nhủ các tín hữu đề cao cảnh giác đối với những người gieo rắc những sai lầm. Ngài nhắc lại một số điểm cần thực hiện trong gia đình, cộng đoàn và xã hội.

56. Thư I gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (Tx): Vào khoảng năm 50 khi thánh nhân ở Côrintô, nhận được tin giáo đoàn Thêxalônica đã gặp những điều cần giải quyết về luân lý cũng như giáo lý Chúa quang lâm. Với những lời đậm đà tình thương nhưng rất đanh thép, đã củng cố được đức tin non yếu của tín hữu, đồng thời khẳng định về giáo lý Chúa quan lâm cho những người Do thái cứng lòng tin.

57. Thư II gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca (Tx): Thánh Phaolô viết thư trấn an và chỉnh đốn cộng đoàn về việc chờ đợi Chúa quang lâm. Thánh nhân khẳng định phải có những dấu hiệu báo trước khi Chúa đến ; những cuộc khủng bố bắt bớ các kitô hữu; tiếp theo là bỏ đạo quy mô, sau cùng là tên gian ác xuất hiện.

58. Thư I gởi ông Timôthê (Tm): Sau khi ra khỏi tù ở Rôma đã viết thư này gởi cho người đồ đệ thân tín mà thánh nhân đã đặt lên thay ngài coi sóc giáo đoàn. Nội dung lá thư đưa ra những chỉ dẫn giúp Timôthê tổ chức, điều khiển cộng đoàn và khuyên trung thành với giáo lý.

59. Thư II gởi ông Ti-mô-thê (Tm): Viết vào năm 67 gởi cho ông Timôthê. Đây là một lá thư mục vụ, thôi thúc những ai có trách nhiệm trong cộng đoàn hãy kiên trì chịu thử thách, hăng hái rao giảng Tin mừng và chống lại những người dạy giáo lý sai lạc với luân lý, tín lý, niềm tin.

60. Thư gởi ông Ti-tô (Tt): Trước những bức xúc của người lãnh đạo cộng đoàn, thánh Phaolô viết thư gởi cho Titô, một tín hữu gốc Do thái và bạn đồng hành với Phaolô. Trong lá thư mục vụ, thánh nhân nhấn mạnh những đức tính cần có của người đứng đầu cộng đoàn; đồng thời nhắc nhở các tín hữu về bổn phận của họ.

61. Thư gởi ông Phi-lê-môn (Plm): Ong Philêmôn là một nhân vật quan trọng ở Côlôxê, là người khá giả đã trở lại theo đức tin Kitô giáo, biết đem của cải và uy tín để giúp đỡ cộng đoàn. Ong Phaolô quý mến và gọi ông là cộng sự viên. Trong thư ông Phaolô tế nhị, không áp đặt, không truyền lệnh ông Philêmôn nhận người nô lệ ăn cắp Onênximô như một người nhà trong tình yêu Đức Kitô.

62. Thư gởi tín hữu Do thái (Dt): Thời gian đầu cộng đoàn kitô hữu gốc Do thái (Do thái giáo qua Kitô giáo) gặp khủng hoảng, đức tin hoang mang. Tác giả viết thư này nhằm trấn an, củng cố đức tin, nền tảng đạo đức và sự canh tân đời sống đức tin chính là Đức Kitô.

63. Thư của Thánh Gia-cô-bê (Gc): Thư này nhằm mục đích đến luân lý, thánh nhân nhấn mạnh đến cách cư xử giữa người với nhau, khuyên giữ miệng lưỡi, kiên tâm bền chí khi bị thử thách để chứng minh niềm tin, đồng thời coi trọng người nghèo.

64. Thư thứ I của Thánh Phêrô (1 Pr): Giữa lúc các Kitô hữu bị lưu vong sang đế quốc Rôma, số tân tòng ngày một đông, thánh Phêrô viết thư nhằm khuyên nhủ, động viên và hướng dẫn đời sống đức tin cho những anh chị em tín hữu gia nhập đạo; đồng thời ngài nhấn mạnh bổn phận người Kitô hữu với Hội Thánh.

65. Thư thứ II của Thánh Phêrô (2 Pr): Qua những thăng trầm đức tin, tác giả hướng đến các tác giả sơ khai khám phá và sống theo chân lý, đó là: người tín thông phần vào sự sống của Chúa Kitô, được Chúa dạy dỗ qua các ngôn sứ, tông đồ.

66. Thư I, II, III của Thánh Gioan (Ga): Khi thấy giáo đoàn tín hữu sơ khai một số tác gieo rắc những học thuyết sai lạc. Thánh Gioan viết thư 1 và 2 nhằm chống lại những người lạc đạo đó; đồng thời giúp các tín hữu đề phòng những người theo thuyết ngộ đạo, bằng việc sống bác ái yêu thương. Trong lá thư thứ 3 tác giả nói đến cách sống và cư xử của người tín hữu.

67. Thư của Thánh Giuđa (Gđ): Khi các tín hữu Do thái trở lại đạo Công giáo, vì niềm tin còn non yếu, họ bị gieo rắc những tư tưởng ngược với niềm tin Kitô giáo. Trước tình hình đó, Thánh Giuđa đã viết bức thư dặn dò anh em tín hữu sơ khai đừng nghe theo một số người xấu, đã len lỏi vào các cộng đoàn, gieo rắc lối sống và tư tưởng sai lạc.

68. Sách Khải huyền (Kh): Giữa lúc các tín hữu sơ khai đang bị hoàng đế Nê-rô bách hại. Một số các tín hữu chán nản thất vọng trước cơn bách hại và dường như muốn đầu hàng. Tác giả đã dùng thể văn khải huyền với loại ngôn ngữ biểu tượng và đầy hình tượng; ông đã khuyên nhủ các tín hữu phải sống dũng cảm, củng cố đức tin, niềm trông cậy và lòng trung thành của họ với Đức Kitô và thời đau khổ sắp chấm dứt.



Thứ Ba, 17 tháng 8, 2010

LÀM QUEN VỚI KINH THÁNH

LÀM QUEN VỚI KINH THÁNH

I. KHÁI QUÁT VỀ KINH THÁNH

1. Kinh Thánh là gì ?
Kinh Thánh là bộ sách chứa đựng mặc khải của Thiên Chúa, gồm những điều Chúa nói và những việc Chúa làm, nhằm đưa con người vào đời sống của Thiên Chúa.

2. Kinh Thánh chia làm mấy phần ?
Kinh Thánh chia làm hai phần: Cựu Ước và Tân Ước.

3. Kinh Thánh có tất cả bao nhiêu quyển ?
Kinh Thánh có tất cả 73 quyển:

- Cựu Ước gồm 46 quyển.

- Tân Ước gồm 27 quyển.

4. Trọng tâm của toàn bộ Kinh Thánh là gì ?
Trọng tâm của toàn bộ Kinh Thánh là Chúa Giê-su Ki-tô, vì toàn bộ Kinh Thánh quy hướng về Người và hoàn tất nơi Người.

5. Trong Kinh Thánh những quyển sách nào quan trọng nhất
Đó là bốn quyển Tin Mừng, vì nói về cuộc đời và lời dạy của Chúa Giê-su.

6. Cựu Ước và Tân Ước liên kết với nhau như thế nào ?
Cựu Ước và Tân Ước liên kết chặt chẽ với nhau vì Thiên Chúa chỉ có một ý định cứu độ nhân loại và chỉ có một mặc khải duy nhất, nên cả 2 Giao Ước thống nhất với nhau:
Cựu Ước chuẩn bị cho Tân Ước, Tân Ước hoàn tất Cựu Ước, cả hai soi sáng cho nhau, cả hai đều thật sự là Lời Thiên Chúa ( Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 140 ).

7. Ai là tác giả của Kinh Thánh
Thiên Chúa và những người biên soạn đều là tác giả của Kinh Thánh, vì chính Thiên Chúa đã linh hứng, nghĩa là soi sáng và thúc đẩy các tác giả nhân loại viết ra.

8. Quy điển Kinh Thánh là gì ?

Quy điển Kinh Thánh là những sách mà Giáo Hội công bố là được Thiên Chúa linh hứng, và được dùng làm quy luật cho đời sống Đức Tin của mọi tín hữu.

9. Bản dịch Bảy Mươi là gì ?
Bản dịch Bảy Mươi là bản dịch Kinh Thánh Cựu Ước sang tiếng Hy-lạp đã được các Tông Đồ và Giáo Hội sơ khai sử dụng.

Theo tương truyền, công trình phiên dịch này do 70 người thực hiện vào thế kỷ thứ III trước công nguyên.

10. Bản dịch Phổ Thông là gì ?
Bản dịch phổ thông là bản dịch Kinh Thánh sang tiếng La-tinh do thánh Giê-rô-ni- mô ( 347 – 419 ) thực hiện, nhằm phổ biến trong Hội Thánh Công Giáo.

11. Ngoài Kinh Thánh ra chúng ta còn tìm thấy Lời Chúa ở đâu nữa ?

Ngoài Kinh Thánh ra, chúng ta còn tìm thấy Lời Chúa trong Thánh Truyền gồm những điều Chúa đã nói và những việc Chúa đã làm được lưu truyền một cách sống động trong Giáo Hội.

II. KINH THÁNH CỰU ƯỚC

12. Cựu Ước là gì ?
Cựu Ước là những sách ghi chép Lời Thiên Chúa nói với con người qua dân tộc Do- thái nhằm chuẩn bị cho Đức Ki-tô Cứu Thế xuất hiện.

13. Cựu Ước gồm những sách nào
Cựu Ước gồm 46 quyển, xếp theo 4 loại:
- Một là 5 quyển sách Luật Mô-sê ( Ngũ Kinh ): Sáng Thế, Xuất Hành, Lê-vi, Dân Số, Đệ Nhị Luật.
- Hai là 16 quyển sách Lịch Sử: Giô- suê, Thủ Lãnh ( Thẩm Phán ), Rút, 2 sách Sa-mu- en, 2 sách các Vua, 2 sách Sử Biên Niên, Ét- ra, Nơ-khe-mi-a, Tô-bi-a, Giu-đi-tha, Ét-te, 2 sách Ma-ca-bê.
- Ba là 7 quyển sách Khôn Ngoan: Gióp, Thánh vịnh, Châm Ngôn, Giảng Viên, Diễm Ca, Khôn Ngoan, Huấn Ca.

- Bốn là 18 quyển sách Ngôn Sứ: I-sai-a, Giê-rê-mi-a, Ai Ca, Ba-rúc, Ê-dê-ki-en, Đa-ni- en, Hô-sê, Gio-en, A-mốt, Ô-va-đi-a, Gio-na, Mi-kha, Na-khum, Kha-ba-cúc, Xô-phô-ni-a, Khác-gai, Da-ca-ri-a, Ma-la-khi.

14. Đối với người Ki-tô hữu Cựu Ước có giá trị nào ?
Đối với người Ki-tô hữu, Cựu Ước có 3 giá trị sau đây:
- Một là Cựu Ước nói về Lời hứa cứu độ của Thiên Chúa và những gì Ngài đã thực hiện trong lịch sử dân Do-thái để dọn đường cho Đấng Cứu Thế ra đời.
- Hai là Cựu Ước cho ta thấy đường lối giáo dục đầy nhân hậu khôn ngoan của Thiên Chúa đối với loài người.
- Ba là Cựu Ước đem lại cho ta một kho tàng kinh nghiệm phong phú về cuộc sống và Đức Tin.

III. KINH THÁNH TÂN ƯỚC

15. Tân Ước là gì ?

Tân Ước là những sách ghi chép Lời Thiên Chúa nói với con người nơi Đức Giê-su Ki-tô.

16. Tân Ước gồm những sách nào ?
Tân Ước gồm 27 quyển. Đó là:
- 4 quyển Tin Mừng ( Phúc Âm ): do các thánh Mát-thêu, Mác-cô, Lu-ca và thánh Gio-an ghi chép.
- Sách Công Vụ Tông Đồ.
- Mười ba Thư của thánh Phao-lô gởi cho các giáo đoàn tại Rô-ma, Cô-rin-tô ( 2 ), Ga- lát, Ê-phê-sô, Phi-líp-phê, Cô-lô-xê, Thê-xa-lô-ni-ca ( 2 ), gởi cho ông Ti-mô-thê ( 2 ), gởi cho ông Ti- tô, gởi cho ông Phi-lê-môn.
- Thư gởi tín hữu Do-thái.
- Bảy Thư Chung của các thánh Gia-cô- bê, thánh Phê-rô ( 2 ), thánh Gio-an ( 3 ), thánh Giu-đa.
- Sách Khải Huyền.

17. Tân Ước vượt hẳn Cựu Ước ở điểm nào ?
Tân Ước vượt hẳn Cựu Ước ở điểm này:
Cựu Ước là Lời Thiên Chúa nói qua trung gian của loài người. Tân Ước là Lời Thiên Chúa nói qua chính Con Một của Ngài là Đức Giê-su Ki-tô, Lời hoàn hảo và sau cùng của Thiên Chúa ( Dt 1, 1 – 2 ).

18. Để hiểu rõ các bản văn Tân Ước, chúng ta cần biết những gì ?
Để hiểu rõ các bản văn Tân Ước, chúng ta cần biết về bối cảnh xã hội, chính trị, tôn giáo của đế quốc Rô-ma, cũng như của xứ Pa-lét- tin, nơi Đức Giê-su, Ngôi Lời làm người đã sinh sống.

19. Tin Mừng là gì ?
- Tin Mừng là chính Đức Giê-su Ki-tô, niềm vui cứu độ.
- Tin Mừng là Lời loan báo cứu độ của các Tông Đồ và Hội Thánh.
- Tin Mừng cũng là bốn sách Tin Mừng.

20. Tin Mừng Nhất Lãm là gì ?
Đó là ba sách Tin Mừng theo thánh Mát- thêu, Mác-cô và Lu-ca.

Cả ba sách Tin Mừng này đều có một dàn ý giống nhau, nên có thể xếp các chương, các câu thành ba cột song song để dễ dàng nhận ra những điểm tương đồng và dị biệt với nhau.

IV. KINH THÁNH TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI VÀ ĐỜI SỐNG CỦA TỪNG KI-TÔ HỮU

21. Hội Thánh tôn kính Kinh Thánh như thế nào ?
Hội Thánh tôn kính Kinh Thánh như tôn kính Mình Máu Chúa. Cả hai nuôi dưỡng và hướng dẫn toàn thể đời sống Ki-tô giáo.

22. Kinh Thánh có cần cho đời sống chúng ta không ?
Kinh Thánh rất cần cho đời sống chúng ta, vì “không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki- tô” ( thánh Giê-rô-ni-mô ).

23. Chúng ta đọc Kinh Thánh để làm gì ?
Chúng ta đọc Kinh Thánh:
- Một là để cầu nguyện, gặp gỡ Thiên Chúa, và sống thân mật với Ngài.

- Hai là để được Thiên Chúa nuôi dưỡng và hướng dẫn sống đời làm con của Ngài

24. Làm thế nào để có thể mở đúng đoạn Kinh Thánh cần tìm ?
Một là phải nắm vững một số ký hiệu viết tắt. Ví dụ: Lc: Tin Mừng theo thánh Lu-ca; Mc: Tin Mừng theo thánh Mác-cô.
Hai là nắm vững thứ tự chương và câu. Ví dụ:

Is 61, 9 – 11: trích sách Ngôn Sứ I-sai-a, chương 61, từ câu 9 đến hết câu 11.

Lc 9, 7 – 9: trích Tin Mừng theo thánh Lu- ca, chương 9 từ câu 7 đến hết câu 9.
2 V 2,1.6 – 14: trích sách Các Vua quyển thứ 2, chương 2, câu 1 và tiếp ngay câu 6 đến hết câu 14.
Ba là nên học thuộc lòng thứ tự các sách Kinh Thánh. Ví dụ: Thứ tự 13 Thư của thánh Phao-lô và thư Do-thái được đọc tắt thành một câu cho dễ nhớ như sau:
Rô-Cô-Cô / Ga-Ê-Phi / Cô-Thê-Thê / Tim-Tim-Tit / Phi-Do.

25. Chúng ta có thể đọc Kinh Thánh khi nào ?
Chúng ta có thể đọc Kinh Thánh:

- Trong Thánh Lễ.

- Trong những buổi suy tôn Lời Chúa.

- Trong nhóm chia sẻ Lời Chúa.

- Trong giờ kinh gia đình.

- Trong những lúc cầu nguyện riêng.

- Trong các buổi học hỏi, thảo luận về Kinh Thánh.

26. Có những phương tiện nào giúp chúng ta học hỏi Kinh Thánh ?



Có nhiều phương tiện truyền thông giúp chúng ta có thể học hỏi Kinh Thánh như: truyền hình ( tivi ), truyền thanh ( radio ), mạng Internet, băng thu thanh ( cassette ), băng hình video, đĩa nén ( CD Rom ) và các sách báo Công Giáo.

27. Khi đọc Kinh Thánh chúng ta cần phải có tâm tình và thái độ nào ?



Cần phải có tâm tình và thái độ sau đây:



- Một là tin rằng Thiên Chúa ngỏ lời với mình qua Sách Thánh.

- Hai là muốn tìm đến với Thiên Chúa.

- Ba là thinh lặng nội tâm: đặt mình trước mặt Thiên Chúa, xin Người ban Thánh Thần giúp hiểu Lời Chúa.

- Bốn là đón nhận Lời Chúa với tấm lòng con thảo.

- Năm là đáp lại Lời Chúa với với tâm tình ngợi khen, cảm tạ.

28. Muốn hiểu đúng Lời Chúa trong Kinh Thánh, phải làm gì ?



Muốn hiểu đúng Lời Chúa, cần phải:



- Một là xin Chúa Thánh Thần soi sáng.

- Hai là hiểu Kinh Thánh trong toàn bộ mặc khải, nghĩa là không được đặt các chân lý trong Kinh Thánh đối nghịch với nhau.

- Ba là tuân theo Huấn Quyền, vì Hội Thánh có quyền giải thích chính thức Lời Chúa.

29. Muốn thu được nhiều lợi ích từ việc đọc Kinh Thánh, phải làm gì ?



Muốn thu được nhiều lợi ích, cần phải:



- Một là lắng nghe, học hỏi, suy gẫm Lời Chúa hằng ngày.

- Hai là áp dụng vào đời sống những gì mà Chúa Thánh Thần soi sáng để thăng tiến mối quan hệ với Thiên Chúa và với tha nhân.

- Ba là tiếp tục sứ vụ “Đọc Kinh Thánh – Nói Lời Chúa” cho người muốn nghe.

30. Ai có nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa ?

Mọi tín hữu đều có nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa: giáo sĩ, tu sĩ, cũng như giáo dân ( nhất là các Giáo Lý Viên ).

NHÓM TÔNG ĐỒ KINH THÁNH

Thứ Hai, 16 tháng 8, 2010

TIỂU SỬ TIN MỪNG MATHÊU

NHỮNG LÝ DO VÌ SAO NÊN ĐỌC KINH THÁNH



1- SÁCH ĐƯỢC IN NHIỀU NHẤT VÀ BÁN CHẠY NHẤT

Kinh Thánh là cuốn sách có số lượng in nhiều nhất và bán chạy nhất từ trước tới nay. Theo ước tính đã có trên 3 tỷ cuốn Kinh Thánh đã được in ra. Hiện nay, có khoảng 100 triệu cuốn Kinh Thánh được bán ra mỗi năm, và con số này mỗi năm càng gia tăng.

Sáng thế 22,18 "Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta."

2- SÁCH CÓ SỐ ĐỘC GIẢ ĐÔNG NHẤT VÀ ĐƯỢC DỊCH RA NHIỀU NGÔN NGỮ NHẤT

Với số lượng in nhiều nhất như thế, số người đọc Kinh Thánh cũng đứng hàng đầu. Nếu tính con số tối thiểu cứ mỗi cuốn sách được in ra có ít nhất 2 người đọc, thì trên thế giới đã có trên 6 tỷ người đọc Kinh Thánh. Kinh Thánh còn là cuốn được dịch ra nhiều ngôn ngữ nhất.

Giêmêria 31,33 "Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó - sấm ngôn của ĐỨC CHÚA. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta".

3- SÁCH VIẾT VÊ MỘT TRUYỆN TÌNH HAY NHẤT

Không có lá thư tình nào, truyện tình nào trên thế giới hay và dài như những lá thư, truyện tình trong Kinh Thánh. Chúa Giêsu nói, "không có tình yêu nào cao quý cho bằng tình yêu người hiến mạng sống mình vì người yêu", và chính Ngài đã làm điều đó để chứng minh tình yêu Thiên Chúa dành cho chúng ta.

Gioan 10,11 "Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên".

4- SÁCH HỢP THỜI NHẤT

Mặc dù Kinh Thánh đã có gần 2000 năm, thế nhưng một điều kỳ diệu là những Lời Kinh Thánh không lỗi thời nhưng lại rất hợp thời. Những lời trong Kinh Thánh vẫn rất đúng và vẫn được đem ra áp dụng trong đời sống hằng ngày.

Dothái 13,8 Đức Giê-su Ki-tô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.

5- SÁCH CÓ QUYỀN NĂNG NHẤT

Tất cả những sách có mặt trên mặt đất đều không có quyền năng vì là những lời của con người. Lời Kinh Thánh đầy quyền năng vì là Lời của một Thiên Chúa hằng sống, uy quyền, và vinh quang muôn ngàn đời. Lời Kinh Thánh có quyền năng tha thứ, chữa lành, biến đổi, cho kẻ chết sống lại và mang đến ơn Cứu Độ.

Mác cô 2,11-12 Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con mà đi về nhà!" Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ!"

6- SÁCH NÓI VỀ THIÊN CHÚA HAY NHẤT

Nếu bạn đã từng đi tĩnh tâm nghe một bài thuyết giảng hay nhất về Thiên Chúa của một người nổi tiếng nhất thì tất cả những điều bạn nghe đều xuất phát từ cuốn Kinh Thánh. Một bài giảng về Thiên Chúa mà không có điểm tựa từ Kinh Thánh là một bài giảng “trật đường”. Không ai có thể biết và viết về Thiên Chúa nếu không được mạc khải cho, và Thiên Chúa chính là tác giả của sách Kinh Thánh.

Mátthêu 11,27 "Cha tôi đã giao phó mọi sự cho tôi. Và không ai biết rõ người Con, trừ Chúa Cha; cũng như không ai biết rõ Chúa Cha, trừ người Con và kẻ mà người Con muốn mặc khải cho.

7- SÁCH NÓI VỀ BẠN HAY NHẤT

Càng đọc Kinh Thánh, bạn càng khám phá ra những lời trong Kinh Thánh đang nói về và cho chính bạn. Bạn đang đau khổ, buồn sầu, tội lỗi, chán nản hay vui sướng, bình an... tất cả những điều đó bạn đều tìm thấy trong Kinh Thánh.

Thánh vịnh 119,105 Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.

8- SÁCH QUAN TRỌNG VÀ GIÁ TRỊ NHẤT

Chúa Giêsu nói: "người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng còn bởi Lời do miệng Thiên Chúa phán ra". Nói cách khác, nếu bạn chỉ ăn để sống mà thiếu niềm tin và sống Lời Chúa thì bạn đang chết một nửa đời. Một nửa đời bạn đang chết đó là linh hồn bạn đang thiếu của ăn Lời Chúa.

Mátthêu 16,26 "Vì nếu người ta được cả thế gian mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?"

9- SÁCH ĐẮT GIÁ NHẤT

Kinh Thánh được viết vì bạn và cho bạn một cách nhưng không. Phú quý, giàu sang, nghèo nàn, thất học đều có thể đọc. Thế nhưng, Kinh Thánh là sách đã được trả giá đắt nhất không phải về giá trị vật chất thế gian nhưng là bởi Máu và Cái Chết của Chúa Giêsu.

Dothái 9,15 "Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa".

10- SÁCH NÓI VỀ QUÁ KHỨ VÀ TƯƠNG LAI CHẮC CHĂN NHẤT

Không một thầy bói, nhà chiêm tinh nào có thể nói về quá khứ và tương lai đúng và chắc chắn nhất như sách Kinh Thánh, vì ngay cả số mệnh, cuộc đời của họ cũng nằm trong cuốn Kinh Thánh. Bạn muốn đi đúng đường, đúng hướng, có tương lai chắc chắn hãy tìm đọc Kinh Thánh.

Dacaria 10,2 Quả thật, các tượng thần chỉ nói điều gian trá, lũ thầy bói chỉ thị kiến điều gian; chúng công bố những giấc chiêm bao nhảm nhí, nói những lời an ủi vu vơ. Chính vì thế, họ phải ra đi, thảm não ê chề, như đàn chiên không người chăn dắt.

11- SÁCH CÓ NHIỀU SÁCH NHẤT TRONG MỘT CUỐN SÁCH

Kinh Thánh là sách có nhiều cuốn sách nhất trong một cuốn sách. Tổng cộng có 73 cuốn Kinh Thánh: 46 cuốn Cựu Ước và 27 cuốn Tân Ước.

12- SÁCH DUY NHẤT BẢO ĐẢM ĐỜI SỐNG ĐỜI ĐỜI CHO BẠN

Không ai trên đời có thể bảo đảm cho bạn sẽ được sống đời đời và cũng không ai trên đời có thể cứu bạn khỏi sự chết đời đời. Chỉ có một mình Chúa Cứu Thế Giêsu duy nhất mới bảo đảm được điều đó. Những ai tin, tuôn giữ Lời Ngài và đón nhận Ngài là Cứu Chúa của đời mình thì sẽ được sống đời đời.

Gioan 6,40 "Thật vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết."

Ước mong Năm Lời Chúa này, mỗi người sẽ đọc Lời Chúa và sống Lời Chúa nhiều hơn. Và để kết thúc xin được mượn lời của Thánh Giê-rô-ni-mô để suy nghĩ về đời sống đức tin của mình: "Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Ki-tô".

Vậy bạn còn chờ đợi gì mà không đọc cuốn sách ấy. Xin mời hãy đọc Kinh Thánh hôm nay.

Thứ Hai, 9 tháng 8, 2010

ĐỌC LỜI CHÚA THEO LECTIO DIVINA

ĐỌC LỜI CHÚA THEO LECTIO DIVINA


Trình Bày / Biện Minh / Giới Hạn / Phương Tiện / Áp Dụng

________________________________________

Trình bày phương pháp:

Khi đi vào phạm vi linh đạo của Thánh Kinh, người ta đi qua đi qua nghĩa văn tự của bản văn Thánh Kinh mà đến nghĩa thiêng liêng. Theo tài liệu Giải Thích Thánh Kinh trong Hội Thánh của Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh năm 1994, nghĩa văn tự của Thánh Kinh không phải là nghĩa đen như trong phái cơ bản, nhưng là nghĩa được diễn tả cách trực tiếp bởi các thánh sử, một nghĩa được hiểu theo phương pháp phân tích lịch sử và văn chương của bản văn. Nghĩa thiêng liêng được hiểu là

nghĩa được diễn tả bởi bản văn Thánh Kinh khi đọc dưới ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần, trong khung cảnh của Mầu Nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô và đời sống mới phát sinh từ Mầu Nhiệm ấy.

Như thế, có một phạm vi linh đạo trong của các bản văn Thánh Kinh, và người ta có thể tìm thấy ý nghĩa thiêng liêng khi đi vào phạm vi này. Trong khi một người đi vào phạm vi lịch sử qua việc học hỏi và điều nghiên lịch sử, thì người khác có thể đi vào phạm vi linh đạo của Thánh Kinh qua Niềm Tin vào Đức Kitô và mở lòng ra đón nhận ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần. Phải, nếu có những phương pháp để nghiên cứu Thánh Kinh theo lịch sử, thì cũng có phương pháp đọc Thánh Kinh giúp cho người đọc đi vào ý nghĩa thiêng liêng của Thánh Kinh. Đương nhiên là phương pháp đưa một người vào vòng ảnh hưởng của Chúa Thánh Thần và đi sâu vào những cảm nghiệm của đời sống mới trong Đức Kitô phải rất khác các phương pháp đọc Thánh Kinh khác. Phương pháp đọc Thánh Kinh theo linh đạo này được truyền thống Công Giáo gọi là Lectio Divina.

Phương pháp đọc bản văn Thánh Kinh này có 4 giai đoạn:

1. Lectio (Đọc) -- Chậm rãi đọc bản văn với sự chú ý và tâm đầu óc cởi mở.

2. Meditatio (Suy Niệm) -- Suy niện về đoạn Thánh Linh vừa đọc; tập trung tư tưởng vào đoạn Thánh Kinh ấy; đi vào đoạn Thánh Kinh bằng trí tưởng tượng, tự đặt mình vào biến cố hay sứ điệp trong ThánhKinh.

3. Oratio (Cầu Nguyện) -- Đáp lại lời bạn vừa đọc như là một thông điệp Thiên Chúa gửi đến; hướng tâm hồn về Đấng đang nói với bạn qua đoạn Thánh Kinh; nhập cuộc đối thoại thiêng liêng với Thiên Chúa là Tác Giả đoạn Thánh Kinh này.

4. Contemplatio (Chiêm Nghiệm) -- Im lặng. Hiện diện. Kính mến. Kết hợp. (Đây là mục đích của đọc Thánh Kinh theo phương pháp thiêng liêng, một mục đích mà chúng ta có thể cố gắng đạt đến, vì chúng ta có thể chuẩn bị, nhưng điều tối hậu chúng ta chỉ có thể nhận được là một món quà ân sủng).

Tác giả về linh đạo, Á Thánh Columba Marmion, tóm tắt bốn giai đoạn của Lectio Divina như sau:

Chúng ta đọc (lectio) Dưới đôi mắt của Thiên Chúa (meditatio) Cho đến khi Ngài chạm đến tâm hồn chúng ta (oratio) Và nó bùng cháy (contemplatio)

[Trích dẫn từ Thelma Hall trong Too Deep for Words: Rediscovering Lectio Divina, (Paulist, 1988) tr. 44 ]

________________________________________

Biện minh cho phương pháp đọc Thánh Kinh theo linh đạo

Trong giáo huấn của Hội Thánh Công Giáo, chỉ học Thánh Kinh qua sách vở hay trường học thì không thể hiểu được ý nghĩa của Thánh Kinh, mà phải nhờ cầu nguyện. Cần phải cầu nguyện xin ơn Chúa thì mới hiểu được các câu trong Thánh Kinh. Các bản văn Thánh Kinh này không thể được hoàn toàn hiểu trong phạm vi lịch sử và văn chương được vì các bản văn này cũng thuộc về phạm vi tinh thần. Cách sách này tuy lúc nào cũng thuộc về thế giới chúng ta, nhưng lại phải được đọc như do trời ban xuống, siêu vượt giương gian, như là một sự truyền thông và tự tỏ mình ra của Thiên Chúa. Trong diễn từ trước Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh năm 1974 Đức Thánh Cha Phaolô VI ghi chú sự giới hạn của việc nghiên cứu Kinh Thánh kinh viện và sự cần thiết của việc mở tâm trí ra đón nhận sứ điệp của Thiên Chúa:

Cần phải có một sự mở lòng thật sự tuyệt đối với Mầu Nhiệm của Thiên Chúa Tình Yêu, nếu không nhà chú giải sẽ mãi mãi bị mù mờ trong tối tăm bất kể trình độ thức giả của người ấy.

Điều đáng ghi chú là năm 1943, Đức Thánh Cha Piô XII đã dùng lời khuyên của Thánh Augustinô đểkết luận Tông Thư Divino Afflante Spiritu, một Tông Thư khuyến khích việc dùng phương pháp lịch sử và văn chương để nghiên cứu Thánh Kinh, rằng:

Vậy, các nhà chú giải các Lời Sấm của Thiên Chúa hãy chăm chỉ thi hành công việc thánh này với tất cả tâm hồn của họ. "Là họ hãy cầu nguyện để họ có thể hiểu."

Sự cần thiết của việc đọc Thánh Kinh theo linh đạo được đâm rễ trong sự hiểu biết của Công Giáo về Thánh Kinh như là phương tiện truyền thông của Thiên Chúa:

Bởi vì trong các Sách Thánh, Chúa Cha là Đấng ngự trên Trời gặp gỡ con cái của Ngài với tình yêu cao cả, và nói với chúng; sức mạnh và quyền năng của Lời Chúa thì thật lớn lao đến nỗi Lời này đứng như là một cột trụ nâng đỡ và năng lượng cho Hội Thánh, cho sức mạnh của Đức Tin của con cái Hội Thánh, lương thực cho linh hồn, nguồn sống thiêng liêng tinh tuyền và vĩnh cửu. (Dei Verbum 22)

________________________________________

Giới hạn của phương pháp đọc Thánh Kinh theo linh đạo

Giáo huấn Công Giáo về giải thích Thánh Kinh thường cảnh cáo việc lạm dụng phương pháp giải thích Thánh Kinh theo linh đạo mà dẫn đến các giải thích chủ quan hoặc ức đoán, với đặc tính là quá ngoại ngôn trong mọi chi tiết của các câu Thánh Kinh. Tài liệu Giải Thích Thánh Kinh trong Hội Thánh cảnh cáo tất cả những giải thích xa lạ với chủ ý đầu tiên của các thánh sử. Người ta có thể tìm thấy ý nghĩa đầy đủ và thâm sâu hơn của các câu Kinh Thánh trong lịch sử cứu độ khi các câu này được thể hiên qua việc Chúa Giêsu xuống thế, nhưng những giải thích theo linh đạo không được tự tách rời khỏi nguồn gốc của nó mà ở đó Lới nguyên thủy của Thiên Chúa được truyền thông trong lịch sử.

Đọc Thánh Kinh theo linh đạo cũng phải tránh các giải thích theo cá nhân. Người ta phải đọc và suy niệm về Thánh Kinh trong Đức Tin của Hội Thánh. Các giải thích theo linh đạo của các Giáo Phụ và các tác giả linh đạo sau này, luôn luôn có giá trị và sáng suốt, mặc dù đôi khi các ngài dùng phép dụ ngôn quá nhiều vì các ngài giải thích Thánh Kinh theo suy loại Đức Tin, theo sứ điệp của toàn bộ Thánh Kinh được đọc theo truyền thống quy hướng về Đức Kitô của Hội Thánh.

________________________________________

Phương Tiện

• Một sách nhập môn về thực hành Lectio Divina hiện đại là sách Too Deep for Words: Rediscovering Lectio Divina (Paulist) của Thelma Hall. Cũng xem bài The Ancient Art of Lectio Divina của Luke Dysinger trên Internet.

• Các sách của các Thánh, các nhà thần bí, và các vị linh hướng, đặc biệt là các suy tư của các vị ấy về các đoạn Thánh Kinh, có thể được đọc như các mẫu cho Lectio Divina. Các tác giả này có thể được đọc như những nhà chú giải Thánh Kinh khác -- các nhà chú giải này có thể thiếu kiến thức về phạm vi lịch sử hay văn chương (thế giới đằng sau và ở trong bản văn), nhưng đã leo lên đỉnh cao của phạm vi linh đạo (thế giới bên trên bản văn). Có thể tìm thấy nhiều ví dụ trong bộ Classics of Western Spirituality của Paulist Press. Trong vài trường hợp, các bộ này gồm thư mục về Thánh Kinh có thể được dùng để tìm các suy tư của các tác giả linh đạo về một câu Thánh Kinh nào đó.

• Message of Biblical Spirituality là một bộ sách mới được Liturgical Press xuất bản, chú trọng đần sứ điệp thiêng liêng của các sách trong Thánh Kinh.

• The Navarre Bible New Testament (Scepter Publishers). Với Tân Ước của RSV và chú giải của các giáo su Đại Học Navarre, Tây Ban Nha, gồm có các giải t thíchi của các Giáo Phụ, các Đức Giáo Hoàng, Công Đồng Vaticanô II, Giáo Lý, cũng như các tác giả linh đạo nổi danh như thánh Josemaria Escriva, Cũng đã xuất bản: The Navarre Bible: Pentateuch. (Scepter Publishers) và nhiều sách Cựu Ước khác.

• Mark P. Shea. Making Senses Out of Scripture: Reading the Bible As the First Christians Did. (Basilica Press) cung cấp cho chúng ta bài học nhập môn vầ bốn nghĩa của Thánh Kinh, trong đó nghĩa văn chương, và linh đạo của các đoạn văn Thánh Kinh được hoà hợp với nhau.

• Một tác giả linh đạo Việt Nam mà bạn nên đọc là Đức Cha JB Bùi Tuần (Chú Thích của dịch giả) và Đức Hồng Y Phanxico Xavier Nguyễn văn Thuận...

________________________________________

Áp Dụng

Hãy đọc một số bài trên Internet về Lectio Divina và thực hành cách vừa đọc Thánh Kinh vừa suy niệm và cầu nguyện này bằng đoạn Thánh Kinh của bạn. Hãy ghi lại những gì bạn hiểu được trong câu này hay ghi lại một lời cầu nguyện để đáp lại lờ trong câu này. Lectio Divina giúp bạn hiểu câu này thế nào? (Nhớ giử sự liên tục giữa nghĩa lịch sử và văn tự với câu này và sự hiểu biết tâm linh mà bạn đạt được nhờ suy niêm và cầu nguyện).

Tìm một thí dụ về những suy niệm về bài Thánh Kinh của bạn theo linh đạo trong thủ bút của một vị Thánh, một nhà thần bí, hay một tác giả linh đạo khác. Tác giả giúp bạn hiểu thêm gì về đoạn văn? So sánh với những giải thích thiên về phương pháp phân tích lịch sử và văn chương, thì những hiểu biết này thế nào?
PHƯƠNG PHÁP CHIA SẺ LỜI CHÚA


---oOo---

Mục đích giúp các nhóm viên biết Sống Lời Chúa trong mọi lúc phản ứng, suy nghĩ, nói năng, hành động, để dần dần trở nên giống Chúa.

I. Chuẩn bị

A- Trước giờ chia sẻ: (10 phút)

1/ Gặp gỡ trao đổi vui buồn tuần qua, tháng qua...

2/ Chọn đoạn Phúc Âm phù hợp, bầuTrưởng Nhóm, Thư ký ghi chép.

B- Trong giờ Chia sẻ: (40 phút)

1/ Cầu nguyện tự phát hoặc hát xin ơn Thánh Thần.

2/ Nhớ không phân biệt tuổi tác, nam với nữ, tu với đời.

3/ Phá bỏ hàng rào ngăn cách để Chúa Thánh Thần làm việc.

4/ Lắng nghe anh em nói về Chúa để sống sự hiệp nhất.

5/ Khi Ơn Chúa đánh động cho một người là cho cả Nhóm.

6/ Nghe nói về khó khăn, chia sẻ để nỗ lực để cảm thông.

7/ Mỗi người nói lên những việc Chúa làm trong đời mình nhất là những khó khăn đang phải đối đầu. (1 đến 2 phút)

8/ Chỉ nên nói những Cảm nghiệm Sống Lời Chúa của mình.

9/ Nhóm viên không nên đối chất, tranh luận ý của bạn vừa chia sẻ (vì chia sẻ khác với học hỏi, hội thoại)

10/ Nhóm viên luôn dùng chữ Tôi hay Con, tránh dùng chữ : “Chúng ta”. (Vì như vậy là dạy bảo, khuyên răn người khác)

11/ Trưởng Nhóm không gây áp lực, chỉ tạo điều kiện cho nhóm viên chia sẻ theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.

12/ Cả Nhóm sẽ dốc quyết một việc làm cụ thể trong tuần.

13/ Mọi người đứng lên cầu nguyện tự phát xin Chúa giúp mình Sống điều mình vừa quyết tâm. Hát một bài kết phần Chia sẻ.

C- Đúc kết lượng giá: (10 phút)

1/ Mọi người cùng vui vẻ đóng góp cho buổi Chia sẻ tốt đẹp hơn.

2/ Chọn đề tài cho tuần tới, tháng sau, nhắc nhở việc cần làm...



PHƯƠNG PHÁP CHIA SẼ LỜI CHÚA THEO BẢY BƯỚC



1.Chúng ta kính mời Chúa đến

• Xin một anh chị mời Chúa đến bằng một lời cầu nguyện.

2. Chúng ta đọc bản văn

• Xin mở tin mừng…chương…(2 lần)

• Xin mời một anh chị đọc câu…

3. Chúng ta rút ra một vài từ và suy niệm

• Chúng ta rút ra một vài từ hoặc một câu ngắn –đọc lên lớn tiếng trong thái độ cầu nguyện và giữ thinh lặng ở giữa.

• Xin một anh chị đọc lại bản văn một lần nữa.

4. Trong thinh lặng chúng ta để Chúa nói với chúng ta

• Chúng ta giữ thinh lặng trong…phút và lắng nghe Chúa nói với chúng ta.

5.Chúng Ta chia sẽ điều chúng ta lắng nghe từ trong cõi lòng

• Điều gì đánh động anh chị ?

• Chúng ta đã sống như thế nào “Lời hằng sống” ?

6. Chúng ta thảo luận một công việc mà cả nhóm được mời gọi thực hiện

• Tường trình công việc cũ;

• Công việc mới nào cần được thực hiện ?

7. Chúng ta cầu nguyện tự phát

• Xin các anh chị dâng lời cầu nguyện.

(Kết thúc một lời kinh hoặc một bài thánh ca mà mọi người đều thuộc).
PHƯƠNG PHÁP CỦA HỒNG Y MARTINI




1. Chuẩn bị (đứng)

* Dấu Thánh giá

* Hát bài về Chúa Thánh Thần.

* Lời nguyện của người hướng dẫn

2. Lắng nghe Lời Chúa (đứng)

* Nghe công bố Lời Chúa

* Ngồi thinh lặng (khoảng 5 phút)

* Nghe lại Lời Chúa lần II (người xướng đứng, tất cả ngồi ngồi).

3. Cầu nguyện và chia sẻ.

* Lời chúa nói với tôi những gì và tác động trên tôi ra sao ?

* Mỗi người chia sẻ một hoặc hai ý tưởng, những từ, những câu đã đánh động tôi nhất.

* Lời Chúa mời gọi tôi sống như thế nào ?

* Qua lời chia sẽ của những người trong nhóm nói với tôi những gì và tác động trên tôi ra sao ?

* Dành 5 phut để ghi lại những gì tôi đã nhận được trong cầu nguyện và qua lời chia sẻ của người trong nhóm. Đó có thể là một lời mời gọi hoán cải rất củ thể trong tương quan giữa tôi với Thiên Chúa, với tha nhân hay với mọi chuyện khác của đời sống thường ngày.

4. Kết thúc.

* Lời nguyện tạ ơn tự phát

* Lời nguyện kết thúc của người hướng dẫn

* Hát bài kết thúc





PHƯƠNG PHÁP CHIA SẼ LỜI CHÚA THEO BẢY BƯỚC



1.Chúng ta kính mời chúa đến

• Xin một anh chị mời Chúa đến bằng một lời cầu nguyện.

2.Chúng Ta đọc bản văn

• Xin mở tin mừng…chương…(2 lần)

• Xin mời một anh chị đọc câu…

3.CHÚNG TA RÚT RA MỘT VÀI TỪ VÀ SUY NIỆM

• Chúng ta rút ra một vài từ hoặc một câu ngắn –đọc lên lớn tiếng trong thái độ cầu nguyện và giữ thinh lặng ở giữa.

• Xin một anh chị đọc lại bản văn một lần nữa.

4.TRONG THINH LẶNG CHÚNG TA ĐỂ CHÚA NÓI VỚI CHÚNG TA

• Chúng ta giữ thinh lặng trong…phút và lắng nghe Chúa nói với chúng ta.

5.CHÚNG TA CHIA SẺ ĐIỀU CHÚNG TA LẮNG NGHE TỪ TRONG CÕI LÒNG

• Điều gì đánh động anh chị ?

• Chúng ta đã sống như thế nào “Lời hằng sống” ?

6.CHÚNG TA THẢO LUẬN MỘT CÔNG VIỆC MÀ CẢ NHÓM ĐƯỢC MỜI GỌI THỰC HIỆN

• Tường trình công việc cũ;

• Công việc mới nào cần được thực hiện ?

7.CHÚNG TA CẦU NGUYỆN TỰ PHÁT

• Xin các anh chị dâng lời cầu nguyện.

(Kết thúc một lời kinh hoặc một bài thánh ca mà mọi người đều thuộc).