Kinh Thánh rất cần cho đời sống chúng ta, vì “không biết Kinh Thánh là không biết Đức Ki- tô” (Giê-rô-ni-mô)
Thứ Bảy, 12 tháng 5, 2012
Cầu cho cha mẹ 8 - Nghe, tải, tặng, xem lyric trên iMuzik
Cầu cho cha mẹ 8 - Nghe, tải, tặng, xem lyric trên iMuzik: Imuzik - Một thế giới âm nhạc
Thứ Hai, 7 tháng 5, 2012
Bình an trong khủng khoảng
Bình an trong khủng khoảng
(14, 27-31)
GB. Trần Ngọc Long,svd
Bài Tin Mừng
hôm nay (Ga 14,27-31) tiếp nối bài Tin Mừng hôm qua (Ga 14,21-26). Cả hai đoạn
này nằm trong phần cuối bài Diễn Từ thứ I của Đức Giêsu (13,31 - 14,31) với
những Lời cáo biệt.
Thật vậy, từ
câu 27 đến câu 31 chúng ta nhận thấy các môn đệ đang xao xuyến, lo âu trước
“giờ” của Đức Giêsu - giờ Người về cùng Cha, Đức Giêsu đã hứa ban bình an cho
các ông (c.27) Biết các môn đệ chưa vững tin, Đức Giêsu trấn an các ông: “Lòng anh em đừng xao xuyến” (c. 27c),
hơn thế, phải vui mừng vì Thầy mình đi về cùng Cha (c.28b) và Thầy sẽ trở lại.
Vui vì chính lúc khi bị thử thách, gian truân anh em mới có cảm nghiệm thế nào
là bình an của Thầy ban.
Chủ đề mà bài Tin
Mừng hôm nay muốn nhắm tới là: “Bình an
trong khủng hoảng” của người môn đệ. Tại sao nói “Bình an trong khủng
hoảng”, vì trong lúc các môn đệ xao xuyến, lo âu, bồi hồi thì Đức Giêsu hứa ban
bình an của Người. Nên gọi là “Bình an được ban trong khủng hoảng” để muốn diễn
tả hai chiều kích: một bên là sự khủng hoảng của người môn đệ và một bên là
bình an của Đức Kitô.
1. Bình an do Đức Giêsu để lại.
Mở đầu câu 27
là lời Đức Giêsu hứa ban bình an:“Thầy để
lại bình an cho anh em” (c. 27a).Trong câu nói này như có một sự so sánh
giữa bình an Chúa Giêsu ban, và bình an của thế gian. “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Không như thế gian ban [mà] chính
Thầy ban cho anh em” (c. 27b). Bình an đối với người môn đệ ở đây là gì?
Người môn đệ
sống trong tin, yêu, và ở lại thì bình an chính
là sự phó thác và vâng lời trong tình yêu và tin tưởng, đó chính là tuân giữ
những điều Ngài đã dạy bảo: “Ai yêu mến
Thầy, sẽ giữ lời Thầy” (Ga 14, 23). Thật vậy, các môn đệ đang sống trong
thế gian đêm tối đầy sợ hãi thì việc tuân giữ lời của Người sẽ bảo đảm đem lại
bình an. Như thế, có sự bình an thực sự
chỉ khi tuân giữ lệnh truyền của Chúa Giêsu và lệnh truyền đó là “anh em hãy yêu thương nhau” (Ga 13, 34).
Bình
an Đức Giêsu ban không chỉ đơn thuần là lời chào chúc thông thường nhưng xuất
phát từ sự chủ động trước cái chết nơi Người. Sự bình an Chúa Giêsu ban cho
người môn đệ chính là sẽ dẫn các ông đến niềm vui, để có niềm vui đó chính là
việc yêu mến Đức Giêsu thực sự: “Nếu Anh
em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì
Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (c. 28b).
2. Những lời cuối cùng của Đức Giêsu.
Thật vậy, Đức
Giêsu đã thổ lộ hết những điều mình muốn nói: “Anh em đã nghe chính Thầy đã nói với anh em”(c.28a), Chính Thầy nói
chứ không phải ai khác, “Bây giờ, Thầy đã
nói với anh em trước khi xảy ra… để anh em tin và Thầy sẽ không còn nói nhiều
với anh em nữa” (c.29.30a). Phải nói rằng đây là những lời tâm sự của Người
trước khi ra đi, không còn nhiều thời gian để nói, nhưng anh em hãy tin. Ở đây,
Đức Giêsu đang chuẩn bị để giúp các môn đệ chấp nhận cuộc thương khó của Người,
cuộc thương khó ấy sẽ dẫn đến cái chết của Đức Giêsu. Khi thấy cái chết của Đức
Giêsu, các môn đệ sẽ tin, và sẽ tránh được sự thất vọng trên con đường theo
Chúa. Nhờ tin như vậy, Thần Khí sẽ ở lại với các ông và sự bình an của Người
cũng sẽ ở lại với các ông (c.29).
Tuy nhiên, các
môn đệ phải vui mừng vì Đức Giêsu về cùng Chúa Cha. Trước khi được trở về cùng
Chúa Cha thì Đức Giêsu phải trải qua con đường thập giá, chịu chết nhưng sau
cái đau khổ, cái chết ấy là sự vinh quang, là cuộc chiến thắng của Đức Giêsu
(c.30). Đức Giêsu về cùng Chúa Cha là điều tốt cho các môn đệ, bởi vì Chúa Cha
cao trọng hơn Người. Câu 30 gần như là câu khép lại bài diễn từ của Đức Giêsu,
vì Người không còn nói với các ông nhiều nữa (c. 30a). Cho nên, Đức Giêsu mong
muốn các môn đệ của mình vững tin vào Lời của Người.
3. Cuộc chiến với Thủ Lãnh thế gian.
Mặc dù thủ lãnh thế gian đang đến,
nhưng Đức Giêsu đã khẳng định nó không làm gì được Người, Đức Giêsu đã báo trước
về sự chiến thắng của mình ( c.30b), nên việc sắp xảy ra không phải vì Đức
Giêsu thua thế gian, nhưng là Người muốn chứng minh cho thế gian biết rằng
Người yêu mến Chúa Cha và làm tất cả đúng theo thánh ý Chúa Cha (c. 31a). Câu
31b là dấu chứng kết thúc bài diễn từ: "Nào đứng dậy! Ta đi khỏi
đây".
Đức Giêsu để
lại ban bình an của Người cho các môn đệ: “Thầy
để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy” (Ga
14,27). Bình an mà các môn đệ cảm nhận được khi các ngài ra đi loan báo và làm
chứng về cái chết và Phục sinh của Đức Giêsu. Dù bị bắt bớ, ném đá hay là bị
nhốt trong tù và bị đánh đòn thì các môn đệ vẫn thấy “bình an” và thấy hân hoan
và vui mừng vì đã được đối xử như vậy khi làm chứng về Đức Giêsu Kitô
Qua bài Tin
Mừng hôm nay, chúng ta nhận thấy không chỉ các môn đệ đang gặp khủng hoảng, xao
xuyến, lo âu trước “giờ” của Đức Giêsu - giờ Người về cùng Cha, mà đó cũng là
khủng hoảng mà cộng đoàn của Gioan đang đối diện, họ trải qua những khó khăn
thử thách, họ cần được bình an của Đức Giêsu và họ đã nhớ lại Lời của Người: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho
anh em bình an của Thầy” (Ga 14,27).
Lời ban bình
an của Đức Giêsu không chỉ cho các môn đệ ngày xưa, nhưng mà vẫn được ban cho
chúng ta ngày nay, mỗi lần chúng ta cử hành thánh Lễ là chúng ta nhắc lại lời
này của Đức Giêsu. Điều quan trong là chúng ta có ý thức và xác tín mỗi khi nghe
chủ tế đọc lại những lời này và chúng ta sống như thế nào?
Lạy Chúa Giêsu
! Các môn đệ đã cảm nhận được thế nào là bình an của Chúa khi ho ra đi loan báo
và làm chứng cho Tin Mừng. Xin Chúa cũng ban cho các nhà truyền giáo sự bình an
của Chúa, để họ can đảm vượt qua thử thách, khó khăn trong đời sống chứng tá
Tin Mừng.
Xin Chúa cũng
giúp chúng con nhận ra được sự bình an của Chúa, mối lẫn chúng con gặp khó
khăn, thử thách, lo âu và xao xuyến trên bước đường theo Chúa. Xin cho mõi
người chúng con kiên trì và phó thác trong tình yêu của Chúa. Có như vậy, chúng
con sống ngày càng xác tín hơn vào Lời Chúa dạy, sống đức tin mạnh mẽ, sống tin
tưởng và phó thác trong bình an của Chúa. Amen.
Thứ Ba, 10 tháng 4, 2012
EMMAU
Emmaus
Nói đến
những người không nhà không cửa, người ta thường nhắc đến cha Henri Groués quen
được gọi tắt là cha Pierre, người đã sáng lập cộng đồng Emmaus nhằm giúp những
người bần cùng tự tay xây dựng cuộc sống của họ.
Phong
trào cộng đồng Emmaus khởi sự bằng một căn nhà đổ nát ở vòng đai của thành phố
Paris vào hồi đệ nhị thế chiến. Những người khách đầu tiên của tổ ấm này là các
thanh thiếu niên bụi đời, những người không nhà không cửa, hoặc các tù nhân vừa
được phóng thích.
Câu nói
đầu tiên của cha Pierre với những người mới đặt chân đến cộng đồng là :
"Bạn không được may mắn, nhưng tôi cần bạn để giúp đỡ những người khác...".
Dù khổ sở đến đâu, ai cũng muốn người khác nhìn nhận giá trị của mình, ai cũng
muốn trở thành hữu ích cho người khác. Đó là niềm tin mà cha Pierre luôn khơi
dậy nơi những người đã mất tất cả hy vọng.
Cha
Pierre đặt tên Emmaus cho cộng đồng của Ngài là để nhớ lại câu chuyện của hai
người môn đệ Chúa Giêsu trong buổi chiều Phục Sinh. Cũng như hai người môn đệ
này, giữa lúc họ tưởng như mất tất cả, Chúa Giêsu đã hiện đến mang lại niềm tin
cho họ. Cũng thế, cha Pierre và những người bạn đầu tiên của Ngài đã tìm gặp
được hứng khởi, niềm tin yêu giữa những mất mát ê chề của cuộc sống.
Tạo lại
niềm hy vọng vào cuộc sống đó là khẩu lệnh của cha Pierre, và xây dựng lại niềm
hy vọng đó từ những đổ nát, mất mát. Chính vì thế mà cộng đồng Emmaus chủ
trương đi thu nhặt lại các đồ phế thải, các vật dụng cũ kỹ để chế biến và bán
lại, như một sản phẩm cho chính tay mình làm nên.
Hiện nay
phong trào đã có mặt tại 50 quốc gia trên thế giới với khoảng 290 cộng đồng.
Tất cả mọi người trong cộng đồng đều sống với niềm hy vọng từ những đổ nát và
mất mát trong cuộc sống.
Tin Mừng của
Thánh Luca thuật lại rằng, buổi chiều hôm đó, có hai người môn đệ của Chúa
Giêsu lên đường đi Emmaus, trở về làng cũ của họ.
Cái chết của
Chúa Giêsu là một chấm hết đối với họ: hết mộng công hầu khanh tướng, hết giấc
mơ của một nước Israel thịnh vượng, hết mọi hy vọng. Trở về làng cũ tức là trở
về với thất vọng ê chề. Nhưng cũng chính lúc đó, Chúa Giêsu đã hiện ra với họ,
cái chết mang một ý nghĩa mới, mất mát đã trở thành khởi đầu của lợi lộc, thất
bại trở thành khởi điểm của thành công, buồn phiền đã biến thành vui mừng hân
hoan... Ánh sáng Phục Sinh của Chúa Giêsu đã mặc cho mọi biến cố của cuộc sống
một ý nghĩa mới. Tin tưởng lạc quan đã trở thành nhân đức cơ bản của đời Kitô.
Ở bất cứ nơi
đâu và ở bất cứ thời đại nào, sau một lần đổ nát, người ta thường hát lên điệp
khúc: Hãy xây dựng lại từ đổ nát!
Đó là niềm
tin mà hơn bất cứ lúc nào chúng ta cần phải bám lấy... Bạn đang sầu khổ vì
những mất mát ê chề trong cuộc sống ư? Bạn đang quằn quại trong đau khổ của thể
xác và tinh thần ư? Bạn đang cảm thấy mình ở dưới vực thẳm của tội lỗi ư?
Chúa Giêsu
của thành Emmaus đang nói với bạn: đừng thất vọng, Ngài đang đồng hành với bạn,
và với Ngài, bạn có thể xây dựng được một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Thứ Năm, 5 tháng 4, 2012
Bình An Trong Tâm Hồn
Purna,
một môn đệ của Đức Thích Ca, xin thầy được phép đi đến Sronapa-Ranta, một vùng
còn bán khai để tiếp tục tu luyện và truyền đạo. Nhân lời xin này, người ta ghi
lại cuộc đối thoại giữa hai thầy trò như sau: Đức Thích Ca cho biết ý kiến:
"Nhân dân vùng Sronapa-Ranta còn rất man di. Họ nổi tiếng thô bạo và tàn
ác. Bẩm tính của họ là hiếu chiến, thích gây sự, thích cãi vã, đánh nhau và làm
hại kẻ khác. Lúc đến đó, nếu họ nghi kỵ con, dùng những lời thô bạo để nói xấu,
mắng chửi và vu khống con, con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Nếu
thật sự xảy ra như vậy, thì con nghĩ là: dân chúng tại đây thật tốt lành và
thân thiện, vì họ chỉ lăng mạ con chứ không dùng vũ lực, không đánh đập hay ném
đá con". Đức Thích Ca tiếp lời: "Nhưng nếu họ hành hung và dùng đá
ném con, thì con sẽ nghĩ thế nào?". Purna thưa: "Trong trường hợp đó,
con vẫn nghĩ dân chúng vùng Sronapa-Ranta thật tốt lành và thân thiện, vì họ
không cột con vào cột để đánh đòn và không dùng khí giới sắc bén để sát hại
con".
Nghe môn
đệ xác quyết như thế, Đức Phật không khỏi ngạc nhiên; Ngài hỏi tiếp:
"Nhưng nếu họ thật sự ra tay giết con, con nghĩ thế nào trước khi nhắm mắt
lìa đời?". Không cần suy nghĩ lâu, Purna đáp: "Nếu họ hại đến tính
mạng con, con vẫn nghĩ họ là những người tốt lành và thân thiện, vì họ muốn
giải thoát con khỏi thân xác hay hư nát này". Nghe đến đây, Đức Thích Ca
bảo: "Purna, con đã tu tâm dưỡng tính đến nơi đến chốn để có được sự ôn
hòa, kiên nhẫn hơn người. Thầy nghĩ con có thể sinh sống và truyền đạo cho dân
Sronapa-Ranta. Hãy ra đi và giúp họ dần dần giải thoát khỏi bẩm tính hiếu chiến
và bất nhân như chính con đã tự giải thoát mình khỏi những thiên kiến và những
ý nghĩ hận thù, ghen ghét".
Thiết nghĩ
tự tạo cho mình sự bình an trong tâm hồn là bổn phận của Kitô hữu chúng ta. Và
theo kinh nghiệm của tu sĩ Purna trong câu chuyện trên, để tạo cho mình nền hòa
bình này, chúng ta phải cố gắng tự giải thoát mình khỏi mọi thiên kiến, nghi kỵ
cũng như hằng ngày phải thanh luyện tâm hồn khỏi những ý nghĩ hận thù, ghen
ghét.
Thứ Tư, 4 tháng 4, 2012
Kiếm Ve Sầu
02 Tháng Tư
Ve Sầu Kêu Ve Ve
"Ve sầu kêu ve ve, suốt mùa hè. Đến
kỳ gió bấc thổi, nguồn cơn thật bối rối...".
Trên đây là bốn câu đầu trong bài thơ mà
cụ Nguyễn Văn Vỉnh đã dịch từ chuyện ngụ ngôn "Con ve và con kiến"
của thi sĩ Pháp La Fontaine.
Ở Việt Nam chúng ta cũng như tại nhiều
nước trên thế giới, cứ mỗi độ hè về là ve sầu xuất hiện và kêu inh ỏi.
Theo sinh vật học thì có đến 23 loại ve
sầu, mỗi loại có chu kỳ khác nhau: loại 2 năm, loại 3 năm, loại 17 năm v.v...
Trước khi xuất hiện trên mặt đất, ve đã làm kiếp nhộng sống ngầm dưới đất đến
17 năm. Ngay sau khi ra khỏi trứng, nhộng đã chui xuống đất và sống yên lặng 17
năm.
Sinh vật học còn cho rằng, khi chu kỳ 17
năm chấm dứt, các con nhộng này có thể nghe được một tín hiệu bí mật kêu chúng
ra khỏi lòng đất và hàng trăm triệu con nhộng đã đáp lại tiếng kêu gọi đó, bò
lên mặt dất, tìm cây cối hay vật gì thẳng gốc với mặt đất để bám chặt vào, rồi
lột vỏ, biến thành con ve với hai cánh dài để bay... Nhưng cuộc sống của ve rất
ngắn ngủi: vì chúng chỉ sống được năm tuần lễ vừa đủ để làm một công tác duy
nhất là đẻ trứng rồi chết.
Kiếp sống của con ve sầu có thể làm cho
chúng ta liên tưởng đến cuộc đời của Chúa Giêsu: trong 33 năm sống kiếp con
người, Ngài đã sống ẩn dật đến 30 năm.
Nếu đối với kiếp ve sầu, 17 năm sống dưới
đất như nhộng không phải là vô ích, thì với Chúa Giêsu, 30 năm sống ẩn dật của
Ngài cũng mang một ý nghĩa và giá trị đặc biệt. Kiếp sống lam lũ của người thợ
mộc, những vất vả trong cuộc sống hằng ngày: tất cả đều mặc cho cuộc sống con
người một ý nghĩa.
Chúa Giêsu đến để chiếu rọi ánh sáng vào
cuộc sống con người. Ánh sáng đầu tiên đã được chiếu rọi vào cuộc sống chúng ta
chính là những năm tháng ẩn dật ấy của Chúa Giêsu. Trong ánh sáng ấy, chúng ta
sẽ hiểu dược dù nghèo hèn đến đâu, dù tối tăm đến đâu, công việc từng ngày của
chúng ta là những đóng góp vào công cuộc cứu rỗi của Chúa. Con ve sầu phải tôi
luyện trong suốt 17 năm trời mới có thể xuất hiện để sinh ra một mầm sống mới.
Những lam lũ vất vả từng ngày của người Kitô chúng ta cũng có sức mang lại mầm
sống mới cho rất nhiều người.
Ước gì ánh sáng của Chúa Giêsu chiếu rọi
vào cuộc sống của chúng ta, để, dù vất vả lao nhọc và đau khổ từng ngày, chúng
ta luôn vui vẻ tiến bước vì tin rằng cuộc sống của chúng ta đang mang lại sức sống
cho nhiều người.
Thứ Sáu, 30 tháng 3, 2012
LẼ SỐNG 4
LẼ SỐNG 4
01 Tháng Tư
Tu Đâu Cho Bằng Tu Nhà
Thờ Cha Kính Mẹ Mới Là Đạo Con
Thờ Cha Kính Mẹ Mới Là Đạo Con
Dương Phủ
sinh ra trong một gia đình nghèo. Nhưng ông để hết tâm phụng dưỡng song thân.
Một hôm,
ông nghe nói bên đất Thục có ông Vô Tế đại sĩ. Dương Phủ bèn xin từ biệt song
thân để đến thụ giáo bậc hiền triết.
Đi được
nửa đường, ông gặp một vị lão tăng. vị lão tăng khuyên Dương Phủ: "Gặp
được bậc Vô Tế chẳng bằng gặp được Phật".
Dương Phủ
hỏi vặn lại: "Phật ở đâu?". Vị lão tăng giải thích: "Nhà ngươi
cứ quay trở về, gặp người nào mặc cái áo sắc như thế này, đi đôi dép kiểu như
thế này thì chính là Phật đấy".
Dương Phủ
nghe lời quay về nhà. Đi dọc đường, ông chẳng gặp ai như thế cả. Về đến nhà thì
đã khuya, Dương Phủ gõ cửa gọi mẹ. Người mẹ mừng rỡ, khoác chăn, đi dép ra mở
cửa. Bấy giờ, Dương phủ mới chợt nhận ra nơi mẹ mình hình dáng của Đức Phật mà
vị lão tăng đã mô tả.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Từ đấy, Dương Phủ mới nhận ra rằng cha mẹ trong nhà chính là Phật.
Thứ nhất
thì tu tại gia
Thứ hai
tu chợ, thứ ba tu chùa.
Tu đâu
cho bằng tu nhà
Thờ cha
kính mẹ mới là đạo con.
Để yêu
thương con người một cách trọn vẹn, Chúa đã trở thành một con người. Chúa có
cha, có mẹ. Chúa sinh ra trong một gia đình... Con người không chỉ được cứu rỗi
một cách lẻ loi, nhưng trong một gia đình. Con người cần có một gia đình để
sinh ra, để lớn lên và thành toàn... Tại Nagiaréth, Chúa đã lớn lên trong ân
sủng và dáng vóc. Chúa đã vâng phục Thánh Giuse và Mẹ Maria. Chúa đã học đọc,
học viết và ngâm nga từng câu kinh thánh với Mẹ Maria. Chúa cũng học cách sử
dụng từng dụng cụ trong xưởng mộc của Thánh Giuse.
Trong ba năm
sống đời công khai, ngôn ngữ và cách suy nghĩ của Chúa phản ánh phần nào sự
giáo dục mà Chúa đã thụ hưởng nơi cha mẹ.
Xin Chúa
thánh hóa tất cả mọi gia đình Việt Nam . Xin Chúa ban cho bậc cha mẹ ý
thức được trách nhiệm giáo dục của họ. Xin Chúa ban cho con cái lòng hiếu thảo
để biết vâng phục, kính yêu và phụng dưỡng cha mẹ, nhất là trong lúc tuổi già
của các ngài... Và xin cho mọi gia đình Việt Nam luôn biết tranh đấu để bảo vệ
sự hiệp nhất trong gia đình và biến gia đình thành Giáo Hội nhỏ của Chúa.
Đăng ký:
Bài đăng
(
Atom
)