VÔ VI NHƯ THẦY GIÊSU
GB. Trần Ngọc Long
Khổng Tử đã
từng chủ trương là “nhập thế hữu vi”, nghĩa là cần phải
lăn xả vào đời, làm tất cả để giáo dục con người, biến đổi xã hội. Khác
hẳn với Khổng Tử thì Lão Tử lại chủ trương “xuất thế vô vi”,
tức là không tham dự, không can thiệp mong đổi thay cuộc đời. Kẻ vô vi như
thế, cũng là kẻ vô sự, sống mà không có vấn đề, hư vô thanh tĩnh, không
tranh đấu, không căng thẳng, điềm nhiên nhìn thế sự xoay vần nổi trôi. Vì thế,
khi con người đạt được Đạo thì lúc đó sẽ cảm nhận được cái thênh thanh nhất của
Đạo là “Không tên, không tuổi, không danh” [1].
Chúng ta
càng đi sâu vào tư tưởng Lão Trang, thì chúng ta cũng bắt gặp lối sống đó trong
Kitô giáo, và ngay trong chính Con Người của Đức Giêsu Kitô. Đấng vừa là Thiên
Chúa, vừa là Thầy, nhưng vẫn gọi chúng ta là bằng hữu. Điểm đặc biệt nơi Đức
Giêsu Kitô là tự do, thênh thang, nhưng cũng rất quan tâm đến người khác. Bất
kỳ ai đến với Người đều cũng được nhận sự chia sẻ, sự đồng cảm, sự quan tâm và
niềm an ủi, được tôn trọng cách đặc biệt. Dù là giàu sang quyền thế, hay khố
rách áo ôm, dù là đạo đức hay tội lỗi thì đều được đón nhận. Đức Giêsu Kitô
không chỉ xuất thế, mà Ngài còn nhập thể. Ngài không chỉ vô
vi, mà còn có cả hữu vi.
Vì vậy,
người tu sĩ ngày nay cũng cần phải có lối sống vô vi như Thầy Giêsu. Bên cạnh
sự dấn thân cho sứ vụ truyền giáo, còn phải sống đời sống thánh hiến theo tinh
thần Phúc Âm, cho nên đòi hỏi người tu sĩ càng phải nỗ lực nhiều hơn. Phải nói
rằng Đức Giêsu Kitô đã sống và dấn thân
trọn vẹn trong sứ mệnh mà Chúa Cha giao phó. Người sống và thể hiện qua câu
nói: "Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ
tựa đầu.".[2]
1.
Con đường không tên .
Mở đầu sách
Đạo Đức Kinh, Lão Tử viết:
“ Đạo khả đạo phi thường đạo.
Danh khả danh phi thường danh.
Vô, Danh thiên hạ chi thủy
Hữu, Danh vạn vật chi mẫu “ [3]
Đạo của Lão-Trang
là Đạo “VÔ DANH”. Đạo là một Nguyên Lý thuần nhất, “huyền bí trên mọi huyền
bí ”, nên không dùng ý tưởng hay một danh từ nào ở thế giới tương đối, hữu
hình này, để diễn tả cái Tuyệt Đối vì nó thuộc thế giới khác, thế giới siêu
việt. Ngay cả dùng chữ “ĐẠO” để tạm gọi Nguyên Lý đó, thì cũng là điều gượng
gạo, bất đắc dĩ mà thôi. Tuy là “vô danh” nhưng Đạo là nguồn gốc phát sinh mọi
sinh vật, mọi loài “hữu danh”. Đạo luôn vĩnh cửu, không bao giờ mất.
Theo một
nghĩa nào đó, thì Đạo là con đường, là một lối đi, là một hành trình của đời
người. Con đường đó dẫn chúng ta đi tìm Chân lý, khám phá ý nghĩa cuộc sống. Vì
thế, mỗi người sẽ có một con đường và một lối đi cho suốt cả hành trình của một
kiếp người.
Chính Đức
Giêsu Kitô đã khái quát hóa con đường nơi bản thân Ngài. Con đường dẫn chúng ta
về với Thiên Chúa, là Đấng Chân - Thiện - Mỹ. Con đường đó phải đi ngang qua
con người của Đức Giêsu Kitô, như Ngài đã trả lời ông Tôma: “Chính Thầy
là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua
Thầy”[4].
Thật vậy, Đức Giêsu đã hé mở cho ta một con
đường. Con đường đó dẫn chúng ta đến với Thực Tại Tuyệt Đối, dẫn đến Đạo, dẫn
đến Niết Bàn, dẫn đến sự Thật Giải Thoát, dẫn đến sự sống vĩnh hằng là Thiên
Chúa. Con đường đó chính là Đức Giêsu Kitô.
2. Tinh thần vô vi.
Đức Giêsu
Kitô cũng khuyên các môn đệ đừng lo lắng nhiều, mà phải biết sống phó thác, “Vậy,
anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái
khổ của ngày ấy”[5].
Càng suy nghĩ về câu này, càng thấy thấm thía những tư tưởng của Đức Giêsu
Kitô. Từ khi sinh ra cho đến lúc vĩnh biệt cõi đời này con người cũng chỉ trở
về với hai bàn tay trắng, không mang được gì hơn. Vì thế, càng lo lắng, càng
thu vén cho mình thì con người càng làm nô lệ nhiều thứ. Tiền tài, danh vọng và
địa vị trong xã hội, chỉ là những phương tiện cho con người sống, chứ không
phải là cứu cánh cho con người. Đức Phật đã có lý khi nói “Đời là bể khổ ”.
Do đó, nếu con người cứ lệ thuộc, bám víu và đặt hết tâm trí vào đó thì con
người càng đau khổ. Muốn thoát ra khỏi sự đau khổ đó thì con người cần phải
được giải thoát, cần phải được giác ngộ khỏi sự Mê lầm, không lệ thuộc vào
những gì mà thế gian mang lại. Hay nói cách khác chúng ta phải sống từ bỏ.
Tinh thần vô
vi càng được Đức Giêsu Kitô khẳng định: “Hãy xem chim trời: chúng không
gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi
chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao?”[6]. Phải
chăng đây là một tinh thần sống phó thác triệt để mà Đức Giêsu Kitô đã mời gọi
chúng ta trên hành trình tìm kiếm Chân lý và Sự Thật. Mỗi người chúng ta đều có
giá trị, có ý nghĩa trong cuộc sống. Vì thế, đừng làm mất giá trị của nó với sự
lo toan, tính toán và bận rộn với sự đời. Tinh thần đó càng có ý nghĩa hơn khi
chúng ta sống từ bỏ.
Suốt cuộc
đời của Ngài chỉ tóm gọn trong một chữ “Yêu”, Ngài không phân biệt người tốt
hay người xấu, kẻ tội lỗi hay người đạo đức, người khôn ngoan hay người khờ
dại. Trước mặt Ngài, mỗi con người đều có một giá trị đặc biệt, cần được yêu
thương, cần được chở che, cần được chia sẻ.
3. Cuộc sống vô vi là từ bỏ
Sống từ bỏ
là một sự dấn thấn của mỗi người trong hành trình cuộc đời. Chấp nhận từ bỏ là
chấp nhận đi ngượi lại với mong muốn của người đời. Để được tự do hơn, thênh
thang hơn, không phải lệ thuộc thì mỗi người dám “đánh đổi” đời mình bằng cái
giá rất cao, có khi trở thành người “không bình thường” trong con mắt của người
khác. Từ bỏ mọi sự trở thành điều kiện cho những ai muốn trở thành môn đệ Đức
Giêsu: "Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà
theo.”[7]
Sống từ bỏ
không dễ dàng chút nào, nói thì dễ nhưng thực hành thì vô cùng khó khăn. Mỗi
người đều có những sở thích, có những đam mê, có những thú tiêu khiển… dễ dàng
gì chúng ta bỏ được nó. Những cái nhỏ như vậy mà chúng ta không thể từ bỏ, thì
làm sao chúng ta bỏ được những điều lớn lao hơn.
Ta thấy Đức
Giêsu Kitô, trong sâu thẳm, có một phần của Lão Trang. Đức Giêsu Kitô đã
từng nói với các môn đệ: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì
Nước Trời là của những ai giống như chúng”. Người còn lại nói: “Ai không
đón nhận Nước Thiên Chúa như một trẻ em, thì chẳng được vào”.[8]
Tóm lại,
cuộc sống con người là một chuỗi hành trình trải qua nhiều giai đoạn khác nhau
của cuộc sống. Con người nếm đủ mùi vị cuộc sống, đắng cay, sầu khổ, vui buồn,
hạnh phúc và cả tình yêu nữa. Nhưng con người không biết thưởng thức cuộc sống
bằng tâm hồn trẻ thơ. Nên càng để cho cuộc sống vốn phức tạp lại trở nên phức
tạp hơn.
4. Đời sống người tu sĩ ngày nay.
Khi suy nghĩ
về cuộc đời của Đức Giêsu Kitô chúng ta thấy rất nhiều điểm tương đồng với Lão
Tử. Đó là điểm dung hòa và căn cốt giữa Lão Trang và Kitô giáo. Đối với Lão Tử,
Bậc thánh nhân thì “vô triệt tích”, chọn chỗ thấp mà sống, ẩn giấu mình
đi. Đối với Đức Giêsu Kitô cũng vậy, khi mới sinh ra thì lấy “máng cỏ” làm nôi,
lấy chuồng bò lừa làm nhà, đêm lạnh lẽo dùng “hơi ấm bò lừa” để sưởi ấm. Đức
Giêsu Kitô vốn dĩ là Ngôi Lời, là người giàu có nhất, thế mà được chào đón
trong cảnh bần cùng, đói rét của kiếp người.
Mặt khác,
trong suốt hành trình sứ vụ của mình, Đức Giêsu Kitô luôn chọn lối sống bình
dân, không thích làm “vua” khi dân chúng muốn. Người thích lang thang phiêu
bạt, từ làng này qua làng khác, rong ruổi từ Bắc xuống Nam trong hành trình sứ
vụ của Người. Người cũng chịu bắt bớ, sỉ nhục, bị môn đệ phản bội, bị ruồng bỏ
khi gặp nạn. Ngài cũng thấm được cái đói, cái nghèo của dân chúng, cũng phải
xin người khác nước uống lúc đi đường mệt mỏi. Đặc biệt trong lời dạy dỗ của
Ngài, Ngài luôn mời gọi các môn đệ sống khó nghèo, không ham mê của cải, quyền
lực, danh vọng và những gì thế gian mang lại. Trái lại, hãy sống đơn giản, sồng
hiền lành, biết quan tâm đến người nghèo khổ, thiếu thốn …v.v. Người nói: “Trái
lại, khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối, để cho người đã mời anh phải
đến nói: 'Xin mời ông bạn lên trên cho’. Thế là anh sẽ được vinh dự trước mặt
mọi người đồng bàn. Vì phàm ai tôn mình
lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.".[9]
Đó cũng là
đường lối rất đặc biệt của Đức Giêsu Kitô, Người không chủ trương lấy quyền lực
mà thống trị, lấy uy lực để mà cai quản, ngược lại là đầy tớ phục vụ. Người
nói:
“Anh em biết: thủ lãnh các dân thì
lấy quyền mà thống trị dân, những người làm lớn thì dùng uy mà cai trị dân.
Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm
người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng
như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và
hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” [10]
Tinh thần
phục vụ cũng như sức sống của Đạo không phải ở những người giỏi giang, quyền
thế, khôn ngoan lanh lợi, mà chỉ dành cho người có tính khiêm hạ, bé mọn, biết
quên mình để phục vụ kẻ khác. Chúa Giêsu cũng đã từng thốt lên: "Lạy
Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc
khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người
bé mọn.” [11]. Sự khôn
ngoan của Thiên Chúa khác xa với tư tưởng con người như trong thư thứ nhất của
Thánh Phaolô gửi cho Côrintô. Thánh nhân viết như sau:
“Song những
gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn
ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục
những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không
có, thì Thiên Chúa đã chọn để huỷ diệt những gì hiện có.” [12]
Lão Tử chủ
trương bậc chân kiên quyết “tuyệt thánh khí trí, tuyệt nhân khí nghĩa, tuyệt
xảo khí lợi”[13]. Họ chẳng
mong ước, cố gắng nên thánh theo nhân nghĩa, đạo lý, tôn ti trật tự, tập luyện
để vươn lên. Họ hoàn toàn thụ động trong con đường tu đức này. Họ chỉ nguyện
trở nên thầm lặng, trống không, buông xả, mộc mạc “Làm hang sâu trong thiên
hạ thì đức đầy đủ, lại quay về chất phác mộc mạc-Vi thiên hạ cốc thường đức nãi
túc, phục qui ư phác”[14]. Chân nhân
của Lão giáo còn là người tuyệt đối coi thường tất cả những sự khôn ngoan thông
minh của đầu óc lý luận suy tư, rồi tích lũy kiến thức “trí giã bất bác, bác
giã bất trí”.
Ngược với
quan điểm của Lão Tử trong sách Luận Ngữ, Khổng tử nói: “Kẻ trí thích nước, kẻ nhân
thích núi. Kẻ trí thích động, kẻ nhân thích tĩnh. Kẻ trí vui, kẻ nhân sống lâu”.[15] (VI, 21). Còn
về tri thức thì Khổng Tử viết: “Quân tử bác học ư văn, ước chi dĩ lễ ”[16].
Vì thế,
người tu sĩ ngày nay cũng cần phải có một lối sống “vô vi”, không phải
là không làm gì cả, nhưng là không lệ thuộc vào thế gian. Sống trong thế gian
nhưng mà không bị “hòa tan” vào thế gian, không bị nhiễm những thói đời,
những danh lợi thú. Nhưng biết tỉnh thức và trở về con người thật của mình, để
sống tự do, ung dung, mềm mại như nước, có tâm hồn trẻ thơ để biết đón nhận tất
cả. Phải là chiếc bánh để bẻ ra cho người khác, biết trao ban, biết chia sẻ.
Ước gì cuộc đời này càng có nhiều người dấn thấn cho tình yêu và cho lý tưởng
để theo bước anh Giêsu trong hành trình làm người.
Kết Luận
Phải nói
rằng Kitô giáo rất đề cao “vô vi”, sống tha thiết với ơn cứu độ, sống cái nghèo
tận cùng của mình, thì mở ra ơn cứu độ, nên rất vô vi. Sống vô niềm vui, hoan
lạc, sống rất tha thiết với chiều sâu, sống thênh thang, trở nên bé thơ, phó
thác buông mình cho Thiên Chúa làm mọi sự.
Lối sống đó
càng in đậm nơi con người của Đức Giêsu Kitô, có mấy ai thực sự gần gùi với trẻ
thơ, với hoa với cỏ, với chim trời, với đồng lúa và biển cả cho bằng Đức Giêsu
Kitô. Có mấy ai lắng hồn mình cho sâu thẳm bằng Đức Giêsu Kitô mỗi sáng thức và
mỗi đêm trên núi hay trong đồng cỏ. Con người đó rất tầm thường, bé nhỏ quá,
mong manh quá, vô nghĩa quá, tội lỗi quá, đớn đau quá. Thế nhưng, một khi
Giêsu, Ngôi Lời Nhập Thể đã đến đây, đã vùi mình vào lòng “Đất Mẹ Thiên Nhiên”,
và đã vùi mình xuống dòng sông Gio-đan khốn khổ cuộc đời, thì trong tất mọi con
người, bất kỳ một ai, đều ẩn chứa Sự Chết và Sống Lại, đều chứa chan ánh quang
Phục Sinh.
Tóm lại,
sống cuộc đời bình thường đã là khó, nay sống vô vi chắc chắn sẽ khó
hơn. Mặc dù là lối sống đơn giản, gần gũi với thiên nhiên và con người, không
lệ thuộc vào thế gian nhiều như tiền tài, danh vọng và quyền lực. Song đây cũng
là lời mời gọi cho mỗi người để sống cuộc đời cho thật có ý nghĩa, đặc biệt là
tu sĩ thì cần phải thể hiện lối sống đó nhiều hơn. Noi gương Đức Giêsu Kitô,
sống từ bỏ, sống vâng phục và dấn thân trong sứ vụ của mình như lời mời gọi của
Đức Giêsu Kitô “Vậy anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là
Đấng Hoàn Thiện.”[17]. Đây là lời
mời gọi rất thiết thực cho mỗi người hãy cố gắng hoàn thiện bản thân, hoàn
thiện chính mình để trở thành người môn đệ của Đức Giêsu Kitô như lời thánh
Phaolô “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong
tôi.”.[18]
Tài Liệu
Tham Khảo
1.
Đặng Chí San, Lão Giáo, Giáo Trình Nội Bộ,
Học Viện Đa Minh.
2.
Nguyễn Hiến Lê, Lão Tử và Đạo Đức Kinh, Hà Nội:
Văn Hóa Thông tin, 1998.
3.
Nguyễn Tôn Nhan, Lão Tử Đạo Đức Kinh, Văn Học,
1996.
4.
Phùng Hữu Lan, Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc,
Nguyễn Văn Dương biên dịch, TPHCM: Thanh Niên, 1999.
5.
Nguyễn Khắc Viễn, Bàn Về Đạo Nho, TPHCM: Trẻ,
1998.
6.
Kinh Thánh Trọn Bộ Cựu Ước và Tân Ước. TPHCM, 1998.
[1] Đặng Chí San, Lão Giáo, (Giáo Trình Nội Bộ, Học Viện
Đa Minh), tr. 3.
[2] Mt 8,20
[3] Nguyễn Hiến Lê, Lão Tử và Đạo Đức Kinh (Hà Nội: Văn Hóa
Thông tin, 1998), sđd, tr. 161.
[4] Ga 14,6
[5] Mt
6,34
[6] Mt
6,26
[7] Mc 8,34
[8] Xc. Lc 18,16-17.
[10] Mt
20, 26-28.
[11] Mt
11, 25.
[12] 1 Cr
1, 27-28.
[13] Nguyễn Tôn Nhan, Lão Tử Đạo Đức Kinh
(Văn Học, 1996), sđd., tr. 70.
[14] Nguyễn Tôn Nhan, sđd., tr. 103.
[15] Phùng Hữu Lan, Đại Cương Triết Học Sử Trung Quốc, Nguyễn Văn
Dương biên dịch (TPHCM: Thanh Niên, 1999), tr. 32.
[16] Nguyễn Khắc Viễn, Bàn Về Đạo Nho (TPHCM: Trẻ, 1998), tr.
106.
[17] Mt 5,48
[18] Gl 2,20